Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 55/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HK, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 55/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/11/2023 tại Hội T xét xử Tòa án nhân dân Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2023/HSST, ngày 07/11/2023; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2023/QĐXXST-HS, ngày 15/11/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quốc V; Tên gọi khác: Không; sinh ngày: 26/6/1985; nơi sinh: Xã Q, Huyện Nghĩa Đ, tỉnh Nghệ A; Nơi cư trú: Tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị P; anh chị em ruột có 02 người (bị cáo là con thứ hai); Chức vụ chính quyền, ĐA thể: Không; Vợ: Đậu Thị T; Con: 03 đứa (lớn sinh năm 2011, út sinh năm 2021); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/01/2002 bị UBND tỉnh Hà Tĩnh đưa vào T giáo dưỡng 24 tháng, theo quyết định số 203/QĐ-UB, đã chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2023 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Trần Công T1; sinh năm 1990; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn B, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Anh S; sinh năm 1993; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Tổ dân phố 07, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn S1; sinh năm 1X; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Thôn Hòa S11, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Hoàng Sỹ H1; sinh năm 1X; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Thôn 03 T, xã H, Huyện T Hóa, tỉnh Quảng Bình; Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Trọng T2; sinh năm 1996; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Thôn B, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Hữu H2; sinh năm 1990; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn P, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn Đ; sinh năm 1991; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn 02, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Trần Ngọc Y; sinh năm 1988; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn 05, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Hà H23 T4; sinh năm 1974; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Trịnh Quang D; sinh năm 1988; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Tổ dân phố 01, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Trịnh Quốc K4; sinh năm 1992; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Lê Hồng L5; sinh năm 1991; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn 01, xã H, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Đặng Văn Đ1; sinh năm 1963; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn N, xã G, Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

+ Chị ĐA Thị Y1; sinh năm 1996; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Chị Trần Thị Thu H8; sinh năm 1992; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Anh Phạm Thế H7; sinh năm 1973; nghề nghiệp: Không; địa chỉ: Tổ dân phố 05, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trần Hồng D1; sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

- Người tiến hành tố tụng vụ án:

+ Ông Nguyễn Kim K6, sinh năm 1976 – Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Dũng T9, sinh năm 1992 - Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

+ Ông Mai Trung H12, sinh năm 1990 - Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

+ Ông Lê Hải T13, sinh năm 1993 - Cán bộ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác.

+ Ông Trần Đình N, sinh năm: 1996 - Cán bộ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

+ Ông Đặng Thành Đ12, sinh năm: 1988 - Cán bộ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 11/04/2023, Công an Huyện HK1 bắt quả tang đối tượng Đặng Văn Đ1, sinh năm 1963, trú tại thôn N, xã G, Huyện HK1 về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Quá trình làm việc, Đ1 khai nhận khoảng tháng 3/2023, Đ1 nhiều lần bán trái phép chất ma tuý cho Nguyễn Quốc V, sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, nên ngày 13/04/2023 Cơ quan điều tra phối hợp Công an thị trấn Hương K2 đến nhà triệu tập Nguyễn Quốc V để làm rõ nội dung liên quan. Quá trình làm việc, Vđã thừa nhận bản thân có sử dụng ma túy, loại hồng phiến và trước đó đã mua ma túy của Đặng Văn Đ1 để sử dụng. Ngoài ra, Vcòn khai nhận do quen biết với đối tượng Lê Hồng L11, tên thường gọi là L11 “Long”, trú tại xã Hương Thuỷ, Huyện HK1 và biết L11 có bán ma túy nên Vđã đặt vấn đề với L11 để mua ma túy về sử dụng và bán cho các đối tượng, cụ thể: Vào ngày 12/04/2023, L11 đưa ma túy đến nhưng Vkhông ở nhà nên L11 gọi điện nói cho Vbiết việc L11 đã đưa ma túy đến nhà cho Vvà để ở khu vực sát tường nhà ở của V(vị trí tiếp giáp với xưởng làm lốp Phú Triều). Sau khi về nhà, Vkiểm tra địa điểm mà L11 đã trao đổi qua điện thoại với nhau thì thấy 01 túi ni lông màu xanh được dán kín mép, Vbiết trong túi ni lông có ma túy hồng phiến nên không kiểm tra nữa và do có con nhỏ nên Vkhông đưa gói ma túy vào nhà mà vẫn để tại vị trí cũ, nay Vnhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình nên đã tự nguyện giao nộp 01 túi ni lông màu xanh được dán kín mép, kích thước (6,5x9)cm, bên trong có 30 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” (Vkhai nhận toàn bộ các viên nén có đặc điểm nêu trên là ma túy hồng phiến). Cơ quan điều tra đã thu giữ, niêm phong vật chứng nói trên theo đúng quy định. Tuy nhiên, đến ngày 18/04/2023, Nguyễn Quốc V đã thay đổi lời khai, không thừa nhận số ma túy mà Vđã tự nguyện giao nộp là của Việt. Tại các buổi làm việc sau đó, Vcho rằng số ma túy nói trên là của đối tượng Lê Hồng L11 để tại chỗ ở của Việt, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Cơ quan điều tra đã điều tra, xác định được hành vi mua bán ma túy của Vnhư sau: Nguyễn Quốc V sử dụng số tài khoản 100873209961 Ngân hàng VietinBank và số điện thoại 0974086386. Cơ quan điều tra đã xác minh thông tin, sao kê giao dịch tài khoản 100873209961 của Nguyễn Quốc V tại thời điểm trước khi bị bắt giữ. Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập, làm việc với các đối tượng có liên quan, gồm: Anh Hoàng Sỹ H11, sinh năm: 1X, trú tại xã Thanh Hoá, Huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình; anh Nguyễn Văn S11: sinh năm 1X, trú tại xã H, Huyện HK1; anh Trần Công T1: sinh năm 1990, trú tại xã H, Huyện HK1 và anh Nguyễn Anh S11: sinh năm 1993, trú tại thị trấn Hương K, Huyện HK, các đối tượng đã khai nhận như sau:

- Cuối năm 2022, anh Nguyễn Anh S11 nhiều lần mua ma tuý đá của Việt, mỗi lần từ 200.000 Đ1 đến 300.000 Đ1 và anh S11 đã sử dụng số tài khoản 4596977304X Ngân hàng TMCP Quân đội chuyển tiền vào số tài khoản của Vđể trả tiền mua ma tuý.

- Ngày 01/3/2023, anh Nguyễn Văn S11 mua 03 viên ma tuý hồng phiến của Nguyễn Quốc V, với giá 300.000 Đ1. S11 đã trả 200.000 Đ1 tiền mặt và sử dụng số tài khoản 1012161X Ngân hàng VPBank chuyển khoản 100.000 Đ1 tiền mua ma tuý cho Việt.

- Ngày 28/3/2023, anh Hoàng Sỹ H11 mua 05 viên ma tuý hồng phiến của Nguyễn Quốc V, với giá 500.000 Đ1 và sử dụng số tài khoản 555505051X Ngân hàng TMCP Quân đội chuyển tiền mua ma tuý cho Việt.

- Ngày 11/4/2023, anh Trần Công T1 mua 02 viên ma tuý hồng phiến của Nguyễn Quốc V với giá 200.000 Đ1 và sử dụng số tài khoản 104872982X Ngân hàng VietinBank chuyển tiền mua ma tuý cho Việt.

Việc thực hiện giao dịch mua bán ma túy và thanh toán tiền mua ma túy của các đối tượng với Nguyễn Quốc V bằng hình thức chuyển tiền từ tài khoản của các đối tượng vào số tài khoản 100873209961 Ngân hàng Viettinbank của Nguyễn Quốc V. Việc giao dịch mua bán ma tuý đều được thực hiện ở khu vực trước cổng nhà ở của Việt, tại tổ dân phố 12, thị trấn Hương Khê. Mục đích mua ma túy của các đối tượng là để sử dụng.

- Tiếp tục mở rộng điều tra, Cơ quan điều tra đã triệu tập làm việc các anh Trần Ngọc Y15, sinh năm 1988, trú tại xã H, Huyện HK1; anh Hà H23 T, sinh năm 1974, trú tại thị trấn Hương K, Huyện HK; anh Nguyễn Trọng T14, sinh năm 1996, trú tại xã H, Huyện HK1; anh Nguyễn Văn ĐA, sinh năm 1991, trú tại xã H, Huyện HK1; anh Nguyễn Hữu H23, sinh năm 1990, trú tại xã H, Huyện HK1. Cơ quan điều tra đã làm rõ được, đầu tháng 4/2023, anh Trần Ngọc Y15 mua 03 viên ma tuý hồng phiến của Nguyễn Quốc V, với giá 300.000 Đ1; đầu tháng 4/2023, anh Trần Công T1 và anh Nguyễn Trọng T14 cùng nhau đến nhà Nguyễn Quốc V mua 02 viên ma tuý hồng phiến với giá 200.000 Đ1; thời gian trước tết NguY15 đán 2023, anh Hà H23 T, anh Nguyễn Văn ĐA, anh Nguyễn Hữu H23 đến nhà ở của Nguyễn Quốc V ở tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK mua ma túy đá. Các lần bán ma túy cho các đối tượng trên tại cổng nhà ở của Nguyễn Quốc V, hình thức thanh toán đưa tiền trực tiếp. Ngoài ra, quá trình điều tra còn xác định được, ngày 05/02/2023, Nguyễn Quốc V mua 02 viên ma tuý hồng phiến với giá 200.000 Đ1 của ông Đặng Văn Đ1 để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 429/KL-KTHS, ngày 21/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: 30 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng: 2,9641gam.

* Vật chứng vụ án, gồm: 01 túi ni lông màu xanh được dán kín mép, kích thước (6,5x9)cm, bên trong túi ni lông có chứa 30 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,9641gam, đã lấy 0,2998gam giám định, còn lại 2,6643gam đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh.

- Còn 01 chiếc điện thoại Nguyễn Quốc V sử dụng liên lạc, bị cáo Vđã bị mất trong quá trình sử dụng nên không có căn cứ truy tìm thu giữ; số ma túy mà các đối tượng Hoàng Sỹ H11; Nguyễn Văn S11; Trần Công T1; Nguyễn Trọng T14; Nguyễn Anh S11; Trần Ngọc Y15; Hà H23 T; Nguyễn Văn ĐA và Nguyễn Hữu H23 mua của Vđã sử dụng hết nên không thu giữ được.

Tại bản Cáo trạng số: 55/CT-VKS-HS, ngày 02/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện HK1, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Quốc V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát giữ nguY15 quyết định truy tố và đề nghị Hội Đ1 xét xử, xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 13/4/2023);

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Quốc V có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung.

- Vật chứng vụ án, gồm: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 túi ni lông màu xanh được dán kín mép, kích thước (6,5x9)cm, bên trong túi ni lông có chứa 30 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” là ma tuý, loại Methamphetamine có khối lượng 2,9641gam, đã lấy 0,2998gam giám định, còn lại 2,6643gam.

Tại phiên hôm nay bị cáo xin rút yêu cầu người bào chữa và thừa nhận nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố là đúng và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo tha thiết xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội Đ1 xét xử nhận định như sau:

[1] Về những người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Người chứng kiến ông Trần Hồng D12; Người tiến hành tố tụng vụ án ông Nguyễn Kim K13, ông Lê Hải T16; Người tham gia tố tụng khác ông Trần Đình N15, ông Đặng Thành Đ15 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Bị cáo và đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa, Hội Đ1 xét xử, xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến quá trình làm S11 tỏ diễn biến trong vụ án nên quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tình tiết định tội, định khung, tính chất mức độ hành vi phạm tội:

- Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Quốc V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với các biên bản làm việc ngày 13/4/2023, đơn trình bày trước khi mở phiên tòa, các biên bản khám xét, biên bản niêm phong đồ vật tài liệu, biên bản giữ người trong T hợp khẩn cấp; các bản tường trình của bị cáo; các kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Từ đó đủ cơ sở, căn cứ chứng mình và khẳng định khoảng 15 giờ ngày 13/4/2023 tại nhà ở của Nguyễn Quốc V, tổ dân phố 12, thị trấn Hương K, Huyện HK, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Quốc V đã thực hiện hành vi tàng trữ 2,9641gam ma tuý, loại Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời, Nguyễn Quốc V khai khoảng thời gian từ cuối năm 2022 đến ngày 11/4/2023, Vđã 07 (bảy) lần thực hiện hành vi mua, bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích thu lợi với anh Hà H23 T, anh Nguyễn Văn ĐA, anh Nguyễn Hữu H23, anh Nguyễn Anh S11, anh Nguyễn Văn S11, anh Hoàng Sỹ H11, anh Trần Ngọc Y15, anh Nguyễn Trọng T14 và anh Trần Công T1. Trong đó, có một lần vào ngày 05/4/2023 Nguyễn Quốc V đã thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy đối với hai người là anh Nguyễn Trọng T14 và anh Trần Công T1 nên đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

- Bị cáo Nguyễn Quốc V đã 07 (bảy) lần thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho nhiều người nhằm mục đích thu lợi bất chính và trong đó có một lần vào ngày 05/4/2023 Nguyễn Quốc V thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy đối với hai người cùng một thời điểm là anh Nguyễn Trọng T14 và anh Trần Công T1 nên phải chịu hai tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên” quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

- Vụ án thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng Đ1 xã hội, khi con người sử dụng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển lành mạnh của nòi giống. Vụ án được làm rõ qua đấu tranh truy xét từ lời khai anh Đặng Văn Đ1, cơ quan chức năng đã làm rõ được hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo Việt, nhưng sau đó do tâm lý không ổn định nên Vđã thay đổi lời khai, nhưng trước khi mở phiên tòa bị cáo Vđã thể hiện thái độ ăn năn hối cải, viết đơn trình bày xin nhận tội. Hành vi của bị cáo Vmua ma túy về cất dấu sau đó bán cho nhiều người trong một thời gian, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người, do đó Hội Đ1 xét xử cần áp dụng hình phạt nghiêm buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và nhằm phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, tiền sự, nhân thân, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết tăng nặng, tiền sự: Không;

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện rõ thái độ ăn năn hối cải và luôn thừa nhận nội dung Bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng là đúng; bị cáo cũng khẳng định đã tự nguyện giao nộp toàn bộ số ma túy cất dấu để bán; khi bán bị cáo không được hưởng lợi gì về kinh tế mà được đối tượng cho thêm 01 viên ma túy để sử dụng; Mặt khác hoàn cảnh gia đình rất khó khăn bị cáo đang trực tiếp nuôi hai con nhỏ, vợ bỏ đi từ lâu, mẹ đang nằm viện điều trị được Tổ dân phố và UBND thị trấn Hương K2 xác nhận xin giảm nhẹ hình phạt nên Hội Đ1 xét xử cần căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần như lời đề nghị mức hình phạt của Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Quốc V có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung.

[5] Các hành vi khác: - Trong vụ án này, quá trình điều tra xác định được Đặng Văn Đ1 đã thực hiện hành vi bán ma túy cho Nguyễn Quốc V. Ngày 16/4/2023 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tĩnh đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đặng Văn Đ1 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự, để điều tra xử lý theo quy định, hành vi của Đ1 không xem xét trong vụ án này, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội Đ1 xét xử miễn xét.

- Còn việc bị cáo Nguyễn Quốc V tự nguyện giao nộp 01 gói ma túy 30 viên (hồng phiến) và khai vào ngày 12/04/2023 đã mua của Lê Hồng L11 với giá tiền 1.000.000 Đ1. Tuy nhiên, quá trình làm việc với anh Lê Hồng L11 và tiến hành đối chất giữa bị cáo Vvà anh L11, thì anh Liềm đều không thừa nhận. Do đó, ngoài lời khai của bị cáo Vra thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nguồn gốc số ma tuy thu giữ là của anh Lê Hồng L11 nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để kết luận, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội Đ1 xét xử miễn xét.

- Còn đối với anh Hoàng Sỹ H11, anh Nguyễn Văn S11, anh Trần Công T1, anh Nguyễn Anh S11, anh Trần Ngọc Y15, anh Hà H23 T, anh Nguyễn Trọng T14, anh Nguyễn Văn ĐA, anh Nguyễn Hữu H23 là những người trước đó đã mua ma tuý của bị cáo Nguyễn Quốc V về sử dụng, này đã sử dụng hết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với anh H11, anh S11, anh Trung, anh S11, anh Yến, anh T, anh T14, anh ĐA và anh H23 về hành tàng trữ trái phép chất ma túy, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội Đ1 xét xử miễn xét.

- Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Quốc V đã mua 02 viên ma túy hồng phiến của Đặng Văn Đ1 nhưng bị cáo Vđã sử dụng hết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để kết luận, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội Đ1 xét xử miễn xét.

- Đối với chị ĐA Thị Yến là chủ quán tạp hoá Tâm Diệu và chị Trần Thị Thu Hoài là chủ quán tạp hoá Hải Loan. Quá trình làm việc, thì Vcó nhờ chuyển tiền, nhưng việc chuyển cho ai, mục đích làm gì thì không biết, nên hành vi của chị Yến và chị Hoài không liên quan hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Nguyễn Quốc V.

[6] Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 túi ni lông màu xanh được dán kín mép, kích thước (6,5x9)cm, bên trong túi ni lông có chứa 30 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,9641gam, đã lấy 0,2998gam giám định, còn lại 2,6643gam, vì đây là vật nhà nước cấm lưu hành.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện HK1, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Huyện HK1, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm đề nghị xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp nhận định Hội Đ1 xét xử và đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Về điều luật: Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 251, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

* Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 13/4/2023).

* Về vật chứng vụ án: Tịch thu, tiêu hủy 01 túi ni lông màu xanh được dán kín mép, kích thước (6,5x9)cm, bên trong túi ni lông có chứa 30 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,9641gam, đã lấy 0,2998gam giám định, còn lại 2,6643gam (đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, ngày 02/11/2023).

- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Quốc V phải nộp 200.000 Đ1 án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Quốc V được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/11/2023). Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 55/2023/HS-ST

Số hiệu:55/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về