Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 55/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 11/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2021/QĐXXST - HS ngày 27 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Thành C – sinh năm 1979, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Công T và bà Quản Thị T1; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 03 tháng 11 năm 2020, chuyển tạm giam ngày 11 tháng 11 năm 2020; có mặt.

- Những người làm chứng: Anh Ngô Đức H, anh Đỗ Quang Đ, anh Nguyễn Văn C1.

- Người chứng kiến: Bà Đoàn Thị M

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 03 tháng 11 năm 2020, Tổ Công tác của Công an huyện A kết hợp với Công an thị trấn A làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa Trung tâm Methadol thuộc tổ dân phố B, thị trấn A đã phát hiện phát hiện Trần Thành C, Ngô Đức H, Nguyễn Văn C1 và Đỗ Quang Đ có biểu hiện nghi vấn nên đã kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện bắt quả tang C, H, C1, Đ cất giấu chất nghi ma túy. Tổ công tác Công an huyện A đã lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng niêm phong gửi giám định.

Vật chứng thu giữ của Ngô Đức H 03 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (QT01) trong túi quần bên trái phía trước của Hùng và số tiền 8.800.000đồng. Thu tại dưới chân của Đỗ Quang Đ 01 túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (QT02), trong túi số tiền 1.000.000đồng. Thu của Nguyễn Văn C1 01 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (QT03), túi quần bên trái 01 vỏ bao thuốc lá Vinatabar bên trong có 05 gói nilon chứa tinh thể màu trắng (QT04).

Vật chứng thu giữ của Trần Thành C bao gồm: Thu 01 túi vải để sát vị trí của Trần Thành C bên trong chứa 54 gói chất bột màu trắng (QT05) và 05 gói nilon bên trong có tinh thể màu trắng (QT 06); Công khai nhận là ma túy của Công tàng trữ nhằm mục đích bán lẻ. Ngoài ra thu giữ của Trần Thành C 01 điện thoại Samsung màu trắng số IMEI 359936070951365 và số tiền 5.600.000 đồng.

Tại Cơ quan Điều tra, Trần Thành C khai nhận: Do có mối quan hệ quen biết, bị cáo nhận bán thuê ma túy cho Cao Thùy D từ tháng 10 năm 2020. Khoảng 07 giờ 30 phút hàng ngày, tại khu vực gần cổng Bệnh viện đa khoa A, D đưa cho C 01 túi vải chứa nhiều gói ma túy nhỏ để C bán những người nghiện và khoảng 11 giờ hàng ngày, D đến địa điểm trên để gặp lại C thu tiền do bán được ma túy mà có và số ma túy còn lại; Trần Thành C được D trả công từ 04 đến 05 gói ma túy/ngày. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 03 tháng 11 năm 2020, tại khu vực gần cổng Bệnh viện đa khoa A, D đưa cho C 01 túi vải bên trong có nhiều gói nhỏ chứa heroin và ma túy đá để C bán. Sau khi nhận gói ma túy từ Cao Thùy D, C đã mang túi vải chứa ma túy đến quán nước thuộc tổ dân phố số 3, thị trấn A bán được 04 gói heroin cho 04 người với giá 100.000 đồng/gói thu được 400.000 đồng, sau đó bị Công an bắt và thu giữ những vật chứng như đã nêu trên.

Khi tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Cao Thùy D ở tổ dân phố X, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng có Trần Thị N là bạn gái, chung sống như vợ chồng với Cao Thùy D. N khai nhận, khi thấy lực lượng Công an đến cổng, N có gọi điện cho D và được D nhờ vất hộp kim loại trong có ma túy ra ngoài. N đã mở hộp, kiểm tra thấy bên trong có ma túy nên đã đứng từ cửa sổ tầng 2 ném hộp kim loại, bên trong có ma túy sang vườn nhà ông Hà Minh N1. Ngay lúc đó lực lượng Công an đã vào nhà phát hiện và được N xác nhận những vật dụng, ma túy do N vừa ném ra ngoài. Vật chứng thu giữ gồm 01 túi nilon kích thước 2,5x2,5cm bên trong chứa chất bột màu trắng (KX01); 01 cân tiểu ly, 01 ống nhựa màu cam;

01 hộp dao lam, 03 túi nilon bên trong không chứa gì, 01 hộp kim loại kích thước 18,5x18,5x6cm trong không chứa gì, 01 điện thoại Iphone màu vàng số IMEI 354453067553456 của Trần Thị N.

Tại Kết luận giám định số 695 ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

- Chất bột màu trắng mẫu số (QT01) là ma túy, có khối lượng 0,53gam là Heroine.

- Chất bột màu trắng mẫu số (QT02) là ma túy, có khối lượng 0,18gam là Heroine.

- Chất bột màu trắng mẫu số (QT03) là ma túy, có khối lượng 0,17gam là Heroine - Tinh thể màu trắng mẫu số (QT04) là ma túy, có khối lượng 0,87gam, là Methamphetamine.

- Chất bột màu trắng mẫu số (QT05) là ma túy, có khối lượng 2,85gam là Heroine.

- Tinh thể màu trắng mẫu số (QT06) là ma túy, có khối lượng 074gam, là Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 696 ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng mẫu số (KX01) là ma túy, có khối lượng 0,02gam là Ketamine.

Ngày 11 tháng 11 năm 2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện A đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Thành C, Ngô Đức H, Nguyễn Văn C1 và Đỗ Quang Đ về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tàng trữ trái phép chất ma túy.

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện A đã có quyết định tách vụ án hình sự số 03, tách hành vi của Trần Thành C để điều tra về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án số 33/2021/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện A đã xử phạt Ngô Đức H 08 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; xử phạt Nguyễn Văn C1 05 năm 06 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; xử phạt Đỗ Quang Đ 15 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thành C khai nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho những người nghiện bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ những vật chứng như đã nêu ở trên. Trước khi bị bắt, bị cáo đã bán được 04 gói ma túy cho 04 người thu được số tiền 400.000 đồng. Số 5.600.000 đồng thu giữ trong vụ án có 400.000 đồng do bị cáo thu được từ việc bán ma túy, số còn lại là tiền của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội.

Công bố lời khai những người làm chứng, người chứng kiến có nội dung như bị cáo Trần Thành C đã khai nhận tại phiên tòa.

Tại Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 21 tháng 6 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Trần Thành C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thành C từ 09 đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung bị cáo từ 05 đến 10 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1 khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 túi vải màu hồng kích thước 10x06x02cm;

Tịch thu sung công số tiền 400.000 đồng đã thu giữ trong vụ án.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Samsung màu trắng số IMEI 359936070951365 Trả lại cho bị cáo 5.200.000 đồng đã thu giữ trong vụ án nhưng tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

Khi nói lời nói sau cùng, bị cáo Trần Thành C đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện A lập vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 03 tháng 11 năm 2020, phù hợp với Bản kết luận giám định số 695/KLGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với lời khai những người làm chứng, người chứng kiến; phù hợp với vật chứng đã được thu giữ, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Thành C đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,85 gam heroin và 0,74 gam methaphetamine nhằm mục đích bán cho người khác sử dụng bị bắt quả tang vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 03 tháng 11 năm 2020 tại khu vực trước cửa Trung tâm Methadol thuộc tổ dân phố B, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng, lượng ma túy được quy đổi bằng 71,8%.

[3] Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán cho người khác sử dụng của bị cáo đã phạm vào tội: “ Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Xét tình tiết định khung hình phạt:

[4] Khối lượng chất ma túy thu giữ của Trần Thành C gồm 2,85 gam heroin và 0,74 gam methaphetamine, được quy đổi bằng 71,8% nhưng trước khi bị bắt, bị cáo đã có bốn lần bán ma túy cho 04 người nên hành vi của bị cáo đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự với tình tiết "Phạm tội 02 lần trở lên".

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng; việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[6] Trước khi phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; tỏ ra ăn năn, hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[8] Trước khi phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng lượng ma túy thu giữ của bị cáo được quy đổi bằng 71,8% nên cần áp dụng hình phạt đối với bị cáo ở mức trên khởi điểm mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[9] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự người phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước. Xét hoàn cảnh gia đình, tính chất mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện nên cần phạt bị cáo ở mức 5.000.000đ - Về vật chứng, xử lý vật chứng:

[10] Đối với 01 điện thoại Iphone màu vàng số IMEI 354453067553456 của chị Trần Thị N, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã có quyết định trả lại cho Trần Thị N quản lý, sử dụng.

[11] Đối với số ma túy còn lại sau giám định đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[12] Đối với 01 điện thoại di động Samsung màu trắng số IMEI 359936070951365 là tài sản của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo quản lý, sử dụng.

[13] Đối với 01 túi vải màu hồng kích thước 10x06x02cm là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội có giá trị sử dụng không lớn nên cần tịch thu tiêu hủy.

[14] Đối với số tiền 5.600.000đ thu giữ trong vụ án, có 400.000đ là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công. Đối với số tiền 5.200.000đ còn lại không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho bị cáo Trần Thành C nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về những vấn đề khác:

[15] Đối với Cao Thùy D, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhưng không thi hành được do không xác định được hiện tại Cao Thùy D đang ở đâu, ngoài lời khai của Trần Thành C thì không còn tài liệu, chứng cứ nào thể hiện Cao Thùy D có liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Trần Thành C. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Cao Thùy D thu giữ 0,02 gam Ketamine (không cùng loại ma túy thu được của Trần Thành C) chưa tới mức xử lý hình sự về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện A có Quyết định số 01 ngày 31 tháng 5 năm 2021 tách hồ sơ, tài liệu liên quan đến hành vi của Cao Thùy D và vật chứng có liên quan để xác minh, xử lý sau.

[16] Về án phí: Theo quy định của pháp luật bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Trần Thành C 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03 tháng 11 năm 2020.

Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng chẵn) để sung công quỹ nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đóng dấu niêm phong số 695B/2020/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao bì của mẫu vật; 01 túi vải màu hồng kích thước 10 x 06 x 02cm Tịch thu sung công số tiền 400.000 đ đã thu giữ trong vụ án. Trả lại cho bị cáo 5.200.000đ còn lại nhưng tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.

Trả lại cho bị cáo Trần Thành C 01 điện thoại di động Samsung màu trắng số IMEI 359936070951365 (Toàn bộ số vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện A quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 6 năm 2021của Công an huyện A và Chi cục thi hành án dân sự huyện A).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Bị cáo Trần Thành C phải nộp 200.000 đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 55/2021/HS-ST

Số hiệu:55/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về