Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 09/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2022/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2022. Đối với bị cáo:

Họ và tên: Mùa Thị V - Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1969, tại huyện MCC, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Bản MM, xã MD, huyện MCC, tỉnh Yên Bái. Dân tộc: Mông; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ. Quốc tịch Việt Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Mùa Chờ D và bà Hảng Thị C (Đều đã chết); Có chồng là Hờ Xáy D1 – sinh năm 1966 và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1989, con nhỏ nhất sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10 tháng 6 năm 2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái, có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lý Ngọc K – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hờ A N Địa chỉ: Bản MM, xã MD, huyện MCC, tỉnh Yên Bái. (Có mặt tại phiên toà)

Người phiên dịch: Ông Giàng A Kh – Nơi công tác: Ban Dân vận tỉnh Yên Bái. (Có mặt tại phiên toà)

Những người làm chứng:

1. Vàng A T.

Địa chỉ: Bản MM, xã MD, huyện MCC, tỉnh Yên Bái.

2. Diệp Tuấn A Địa chỉ: Tổ 5, thị trấn MCC, huyện MCC, tỉnh Yên Bái.

3. Giàng A D2.

Địa chỉ: Bản DX, xã KN, huyện MCC, tỉnh Yên Bái.

Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên toà

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 07 tháng 6 năm 2022, Mùa Thị V gặp một người phụ nữ người dân tộc Mông trên đường thuộc bản MM, xã MD, huyện MCC. Trong quá trình nói chuyện, người phụ nữ này hỏi Mùa Thị V có mua ma tuý về bán không thì sẽ bán lại cho một ít Heroine và thuốc phiện. Mùa Thị V đồng ý nên đã mua của người phụ nữ này 05 cục thuốc phiện được gói trong túi nilon màu trắng và 01 gói nilon màu hồng trong có chứa chất bột nén màu trắng, là Heroine với giá 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). Người phụ nữ này cho Mùa Thị V thêm 03 viên nén hình tròn màu xanh, nói là hồng phiến để xem có ai mua thì bán. Sau khi mua được ma tuý, Mùa Thị V thấy các cục thuốc phiện không đều nhau nên đã chia lại cho đều thành 06 cục và chia số Heroine thành hai gói nhỏ. Bị cáo đã cất 05 cục thuốc phiện vào trong lù cở, cất 01 cục thuốc phiện, 02 gói Heroine và 03 viên nén hình tròn màu xanh vào hòm tôn trong buồng của gia đình.

Khoảng 19 giờ ngày 10-6-2022 Mùa Thị V lấy một ít Heroine trong số ma tuý đã mua trước đó gói lại đưa cho Vàng A T để trả công bừa ruộng thuê. Cùng lúc đó có Diệp Tuấn A và Giàng A D2 đến hỏi mua ma tuý nên Mùa Thị V đã lấy một ít Heroine và bán cho Diệp Tuấn A 01 gói, bán cho Giàng A D2 01 gói Heroine với giá mỗi gói là 50.000 đồng. Sau khi bán ma tuý, Mùa Thị V đi ra ngoài làm việc nhà, còn Vàng A T, Diệp Tuấn A, Giàng A D2 ngồi lại trong nhà và cùng sử dụng số ma tuý Mùa Thị V vừa đưa. Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 10-6- 2022, Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra Công an huyện MCC đến kiểm tra, đã phát hiện và thu giữ của Mùa Thị V toàn bộ số ma tuý đang cất giấu trong nhà. Tại cơ quan điều tra, Mùa Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi mua, bán chất ma tuý đã thực hiện.

Tại bản Kết luận giám định số: 324/GĐMT ngày 19-6-2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã kết luận:

- Tổng khối lượng các cục chất nhựa dẻo màu nâu thu giữ khi bắt quả tang Mùa Thị V có khối lượng là 533,5 gam…là ma tuý, là thuốc phiện.

- Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Mùa Thị V có khối lượng là 61,5 gam…là ma tuý, loại Heroine.

- Các viên nén màu xanh thu giữ khi bắt quả tang Mùa Thị V có tổng khối lượng là 0,3 gam…giám định không tìm thấy thành phần của ma tuý.

Bản Cáo trạng số: 66/CT-VKS-P1 ngày 18 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố bị cáo Mùa Thị V về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Thừa nhận đã thực hiện hành vi mua ma tuý của một người không quen biết với mục đích bán lại để kiếm lời. Thừa nhận đã bán ma tuý cho Diệp Tuấn A 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng; bán cho Giàng A D2 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng và đã sử dụng 01 gói Herroine để trả công bừa ruộng thuê cho Vàng A T, như Cáo trạng đã truy tố.

Người bào chữa cho bị cáo Mùa Thị V: Nhất trí với đại diện Viện kiểm sát về việc truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự. Nhất trí với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như nội dung cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để áp dụng thêm cho bị cáo Mùa Thị V tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Bản thân bị cáo không biết chữ. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 16-17 năm tù. Nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng và về việc miễn án phí cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hờ A N: Đề nghị Hội đồng xét xử cho nhận lại số tiền 4.833.000 đồng, là tiền riêng của ông gửi bị cáo Mùa Thị V giữ hộ, không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu luận tội đã giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự: Tuyên bộ bị cáo Mùa Thị V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” và buộc bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội từ hai lần trở lên”. Không nhất trí với đề nghị của người bào chữa về việc cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mùa Thị V từ 17-18 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu huỷ các vật chứng của vụ án gồm: 60,8 gam Heroine và 388 gam thuốc phiện, là số ma tuý đã thu giữ của bị cáo còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định; 02 vỏ phong bì, 01 vỏ hộp đã mở niêm phong, các mảnh nilon, túi nilon, giấy gói; 01 lưỡi dao lam; 01 túi vải màu đen cũ đã qua sử dụng; 02 cân tiểu ly tự chế có vỏ bằng gỗ; 01 chiếc cở; 01 hòm tôn cũ. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 100.000 đồng; Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu BAVAPEN màu đen, bàn phím bấm đã qua sử dụng. Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Hờ A N số tiền 4.833.000 đồng (Bốn triệu tám trăm ba mươi ba ngàn đồng) Về án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa Thị V.

Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì thêm. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt ở mức thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Công an tỉnh Yên Bái; của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái và của các Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Mùa Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện bị cáo Mùa Thị V đã thực hiện hành vi mua ma tuý với mục đích để bán lại kiếm lời. Sau khi mua được ma tuý, bị cáo đã bán cho Diệp Tuấn A 01 lần; bán cho Giàng A D2 01 lần, được tổng số tiền là 100.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo còn sử dụng 01 gói ma tuý để trả công làm thuê cho Vàng A T 01 lần. Lượng ma tuý do bị cáo Mùa Thị V mua để bán xác định được là 61,5 gam, loại Heroine và 533,5 gam thuốc phiện. Nên có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự, như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đã truy tố.

[3]. Bị cáo Mùa Thị V là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, hiểu rõ việc mua, bán ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi mua ma tuý với số lượng lớn với mục đích bán lại nhằm thu lời bất chính. Thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực phòng chống và kiểm soát ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội. Nên hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, cần thiết phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên được coi là người có nhân thân tốt. Sau khi mua ma tuý, bị cáo đã bán ma tuý cho Diệp Tuấn A 01 lần; bán cho Giàng A D2 01 lần, và sử dụng 01 gói ma tuý để trả công làm thuê cho Vàng A T. Nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự do “Phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Nên trong lượng hình cần áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do“Thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mặt khác, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Bản thân bị cáo không biết chữ, không biết tiếng phổ thông. Nên việc bị cáo phạm tội một phần do lạc hậu, thiếu hiểu biết. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của người bào chữa, áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Tuy bị cáo phạm tội với mục đích thu lợi bất chính, nhưng thực tế bị cáo mới bán được 100.000 đồng từ hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo và gia đình là người dân tộc thiểu số, gia đình thuộc diện hộ nghèo tại địa phương và sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy không nhất thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6]. Về vật chứng của vụ án: Đối với 60,8 gam Heroine và 388 gam thuốc phiện, là số ma tuý đã thu giữ của bị cáo còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định. Cùng 02 vỏ phong bì, 01 vỏ hộp đã mở niêm phong, các mảnh nilon, túi nilon, giấy gói;

01 lưỡi dao lam; 01 túi vải màu đen cũ đã qua sử dụng; 01 cân tiểu ly tự chế có vỏ bằng gỗ; 01 chiếc cở; 01 hòm tôn cũ. Xác định đây là các vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng, không sử dụng được. Nên cần tịch thu tiêu huỷ theo quy định của khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu BAVAPEN màu đen, bàn phím bấm đã qua sử dụng do cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo. Xác định là vật không liên quan đến tội phạm. Nên căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại này.

Đối với số tiền 4.933.000 đồng thu giữ của bị cáo Mùa Thị V. Xác định có 100.000 đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu số tiền này nộp ngân sách Nhà nước. Số tiền 4.833.000 đồng còn lại trong quá trình điều tra đã xác định đây là tiền của con trai bị cáo là ông Hờ A N gửi bị cáo giữ hộ, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên không phải là vật chứng của vụ án. Vì vậy cần căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho ông Hờ A N số tiền này.

[7]. Trong quá trình điều tra, bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ cụ thể của người đã bán ma tuý cho bị cáo. Nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác định và làm rõ nhân thân, địa chỉ cũng như hành vi mua, bán trái phép chất ma tuý có liên quan. Việc cơ quan điều tra không khởi tố đối với người đã bán ma tuý do không có căn cứ là phù hợp.

Đối với các đối tượng Diệp Tuấn A, Giàng A D2 và Vàng A T, là những người đã mua, nhận trả công bằng ma tuý của bị cáo Mùa Thị V và có hành vi sử dụng chất ma tuý. Hành vi của các đối tượng này là vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc Công an huyện MCC ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Diệp Tuấn A, Giàng A D2 và Vàng A T về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý là phù hợp. Việc Diệp Tuấn A, Giàng A D2 và Vàng A T sử dụng ma tuý tại nhà của bị cáo Mùa Thị V nhưng không được sự đồng ý của bị cáo. Trong quá trình điều tra cũng đã chứng minh được bị cáo không biết việc các đối tượng này sử dụng ma tuý tại nhà. Nên việc cơ quan điều tra không khởi tố bị cáo Mùa Thị V về hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý là phù hợp.

[8]. Về án phí, bị cáo Mùa Thị V là người dân tộc thiểu số, cư trú tại thôn MM, xã MD, là thôn thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của huyện MCC, tỉnh Yên Bái, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo tại địa phương. Tại phiên toà bị cáo có đề nghị được miễn án phí Hình sự sơ thẩm. Nên Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mùa Thị V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Về hình phạt: Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Mùa Thị V: 17 (Mười bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo: ngày 10 tháng 6 năm 2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng và tài sản đã thu giữ: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1; điểm a, điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ các vật chứng của vụ án gồm: 60,8 gam Heroine và 388 gam thuốc phiện, là số ma tuý đã thu giữ của bị cáo còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định;

02 vỏ phong bì, 01 vỏ hộp đã mở niêm phong, các mảnh nilon, túi nilon, giấy gói;

01 lưỡi dao lam; 01 túi vải màu đen cũ đã qua sử dụng; 02 cân tiểu ly tự chế có vỏ bằng gỗ; 01 chiếc cở; 01 hòm tôn cũ.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 100.000 đồng; Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu BAVAPEN màu đen, bàn phím bấm đã qua sử dụng.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Hờ A N số tiền 4.833.000 đồng (Bốn triệu tám trăm ba mươi ba ngàn đồng) (Các vật chứng hiện đang do Cục thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái quản lý)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa Thị V.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần bản án có liên quan trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về