Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 519/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 519/2023/HS-PT NGÀY 30/10/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 456/2023/TLPT-HS ngày 02 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Trần Ngọc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo bị kháng nghị:

Trần Ngọc T; giới tính: Nam; Sinh ngày 08 tháng 3 năm 1992 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT: Số 51 đường M, phường T1, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk. Chỗ ở: Số 03 đường Y, phường T2, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Trần Văn Q và con bà Bùi Thị B1. Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không.

Có 01 tiền án: tại Bản án số 128/2017/HSST ngày 27/6/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/02/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc T:

Luật sư Nguyễn Đức T3, Văn phòng luật sư T4n thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: 129/5 đường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trần Ngọc T và Nguyễn Phú N1 là người sử dụng trái phép chất ma túy loại Methamphetamine (hay còn gọi là ma tuý đá). Vì không có tiền tiêu xài nên Trần Ngọc T đã nảy sinh ý định mua chất ma túy đá về bán kiếm tiền. Thg qua các mối quan hệ ngoài xã hội, Trần Ngọc T quen biết một người nam giới có tên thường gọi là “Cò Khùng” nhà ở đường Nguyễn Viết X, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk là người bán chất ma túy đá. Khoảng đầu tháng 01/2023, Trần Ngọc T sử dụng điện thoại di động k m theo Sim 0905.057.xxx liên lạc với “Cò Khùng” hỏi mua 200 gam chất ma tuý đá, “Cò Khùng” đồng ý bán chất ma tuý đá cho Trần Ngọc T với giá tiền 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) và thoả thuận sẽ trả tiền sau khi bán hết số chất ma tuý. Sau đó “Cò Khùng” h n Trần Ngọc T đến khu vực đường M1, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk, bán cho Trần Ngọc T khoảng 100 gam chất ma tuý đá. Sau khi mua được chất ma tuý đá, Trần Ngọc T mang về cất giấu tại những phòng trọ rồi bán lại cho nhiều người sử dụng để thu lợi bất chính. Đến đầu tháng 02/2023, Trần Ngọc T thoả thuận mỗi lần bán nợ chất ma tuý đá với số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) cho Nguyễn Phú Ngh a để Ngh a bán kiếm tiền lời, khi nào bán hết chất ma tuý đá sẽ trả số tiền gốc cho Trần Ngọc T. Từ đầu tháng 02/2023 đến ngày 09/02/2023, Trần Ngọc T thuê nhà tại địa chỉ số 03 Đường Y, phường T2, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk, ở cùng với Nguyễn Phú Ngh a. Tại đây, Trần Ngọc T đã bán chất ma tuý đá cho Nguyễn Phú N1 02 (hai) lần để Ngh a bán cho người khác. Nguyễn Phú N1 đã trả lại cho Trần Ngọc T số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Đến chiều ngày 07/02/2023, Trần Ngọc T tiếp tục liên lạc với “Cò Khùng” nói “Cò Khùng” giao tiếp số chất ma tuý đá còn lại. Khoảng 09 giờ 00 ngày 09/02/2023, “Cò Khùng” đến chỗ ở của Trần Ngọc T tại địa chỉ số 03 đường Y, phường T2, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk, đưa cho Trần Ngọc T 01 (một) gói chất ma tuý đá. Sau khi nhận được chất ma túy từ “Cò Khùng”, Trần Ngọc T mang về chỗ ở, cùng với số chất ma tuý còn lại mua lần trước, T cất giấu tại góc tường phía bên phải, sát cổng nhà tính từ ngoài vào, mục đích bán kiếm tiền lời. Vào khoảng 18h00 cùng ngày, Trần Ngọc T tiếp tục bán nợ cho Nguyễn Phú N1 01 (một) gói nylon màu trắng và 01 (một) gói nylon màu đỏ bên trong chứa chất ma tuý đá để N1 bán cho người khác; và bán cho 01 (một) người nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) một gói chất ma tuý đá với giá tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng), bán cho Đoàn Kim Th 01 (một) gói chất ma tuý đá với giá tiền 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng). Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, Đoàn Kim Th đang điều khiển xe mô tô biển số 47L1-008.68 mang theo 01(một) gói chất ma tuý đá mà Th vừa mua được trước đó của Trần Ngọc T đến trước khu vực siêu thị C, số 71 đường N, phường T1, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk thì bị tổ công tác của Công an Tp. B phát hiện bắt quả tang. Đến khoảng 20 giờ 00 cùng ngày, tại số 03 Đường Y, phường T2, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. B tiếp tục phát hiện, bắt quả tang Trần Ngọc T, Nguyễn Phú N1 về hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý, thu giữ toàn bộ vật chứng của vụ án.

Tại Kết luận giám định số 233, 234/KL – KTHS ngày 17/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận:

Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3581 gam, loại Methamphetamine (Ma túy thu giữ trên người Đoàn Kim Th).

Chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,7033 gam, loại Methamphetamine (Ma túy thu giữ trên người Nguyễn Phú N1).

Chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 169,9298 gam, loại Methamphetamine (Ma túy thu giữ của Trần Ngọc T).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/02/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với các bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 05/9/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 10/KN - PT đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Ngọc T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có quan điểm: Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Ngọc T, bởi lẽ: bị cáo có tiền án về tội rất nghiêm trọng nay phạm tội đặc biệt nghiêm trọng về tội mua bán trái phép chất ma túy, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra, bị cáo không có nghề nghiệp gì, thực hiện hành vi mua bán ma túy nhiều lần, thu lợi bất chính 4.900.000 đồng nên đề nghị HĐXX áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo mới phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đúng thẩm quyền, trong hạn luật định để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo Trần Ngọc T tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp lời khai của Nguyễn Phú N1, Đoàn Kim Th, biên bản bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong vụ án có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 09/02/2023, tại địa chỉ số 03 Đường Y, phường T2, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk, lực lượng Cảnh sát Điều tra Công an Tp. B phát hiện bắt quả tang, kiểm tra thu giữ của Trần Ngọc T 01 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 169,9298 gam, thu giữ của Nguyễn Phú N1 khối lượng 2,7033 gam ma túy loại Methamphetamine và Đoàn Kim Th 01 gói ma túy, khối lượng 0,3581 gam đều do T bán với mục đích kiếm lời. Ngoài ra, khoảng thời gian từ đầu tháng 02/2023, T hai lần bán ma túy cho N1, cùng ngày 09/02/2023 bán ma túy cho người đàn ông không rõ lai lịch. Tổng số tiền thu lợi bất chính là 4.900.000 đồng (bốn triệu chín trăm ngàn đồng).

Hành vi của bị cáo Trần Ngọc T đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk truy tố, xét xử là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét kháng nghị:

Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Ngọc T nêu tại [2] với tổng khối lượng ma túy loại Methamphetamine là 172,9912 gam thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các loại dược chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Tòa án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo T, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nh , tăng nặng trách nhiệm hình sự như: bị cáo thành khẩn khai báo, phm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo Trần Ngọc T với mức hình phạt 20 năm tù là nghiêm khắc, có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị tăng hình phạt với mức án chung thân đối với bị cáo Trần Ngọc T của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đề nghị cũng như quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa mà giữ nguyên mức án của Bản án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng bổ sung điểm b khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, HĐXX không chấp nhận, bởi lẽ bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào đầu năm 2022, bị cáo thu lợi bất chính là 4.900.000 từ các lần bán như nêu tại [2] thì không thể xem đây là nguồn sống chính nên chưa đủ điều kiện áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

2. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: bị cáo Trần Ngọc T 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/02/2023.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 24/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 519/2023/HS-PT

Số hiệu:519/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về