Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 489/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 489/2021/HS-PT NGÀY 13/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13/12/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 216/2021/TLPT-HS ngày 16/4/2021. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2021/HS-ST ngày 08/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:

Nguyễn Thái T, sinh năm 1981; Nơi cư trú: thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Kinh doanh nhà nghỉ; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn D, sinh năm 1954 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1957; Vợ Tạ Thị Phương Th1, sinh năm 1986 và có 2 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: không; Tạm giam ngày 15/10/2019 (Có mặt) Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Thị Phương Th (Nhóc), sinh ngày 11/02/2001; Nơi cư trú: 60/32D, khu phố A, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Minh Trường H, sinh năm 1981 và bà Lê Thị Ngọc Th2, sinh năm 1982; Tiền án, tiền sự: không; Tạm giam ngày 14/10/2019 (Có mặt)

Người bào chữa cho các bị cáo:

1/ Luật sư Phạm Thị Hà L và Luật sư Trần Văn Đ, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thái T (Có mặt).

2/ Luật sư Phạm Thị Minh H1, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Phương Th (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:

Nguyễn Thị Phương Th có mối quan hệ quen biết với Nguyễn Thái T. Nguyễn Thái T đã nhiều lần mua ma túy và thuê Th vận chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh về huyện Đức Linh cho T để nhận tiền công.

Ngày 13/10/2019, Nguyễn Thái T thuê Hứa Đại L làm nghề chạy xe hợp đồng, điều khiển xe ô tô biển số 70A-137.07 chở T vào Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy nhằm bán lại cho người khác.

Đến Thành phố Hồ Chí Minh, T mua của một người tên Th3 “trọc” (không rõ nhân thân, lai lịch) trong một con hẻm trên đường Cách mạng tháng Tám (không nhớ rõ địa chỉ cụ thể) gồm: 500 viên thuốc lắc, 150 gam hàng khay, 1kg ma túy đá với giá 477.000.000đồng. Sau khi mua được số ma túy trên, Nguyễn Thái T thuê Nguyễn Thị Phương Th vận chuyển về huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận với tiền công 8.000.000đồng. Nguyễn Thị Phương Th đồng ý và thuê Nguyễn Đại H3 (làm nghề chạy xe Grab) điều khiển xe ô tô biển số 51G-463.12 chở về nhà nghỉ Phương Thảo thuộc thôn 04, xã Đức Hạnh, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Th về đến Nhà nghỉ Phương Thảo thuộc thôn 4, xã Đức Hạnh, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận thuê phòng nghỉ số 3 (nhà nghỉ này do Tạ Thị Phương Th1 là vợ của Nguyễn Thái T đứng tên trên giấy đăng ký kinh doanh) tại đây Th đang chờ giao lại ma túy cho T thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ số ma túy trên.

Do Th khai số ma túy bị bắt quả tang là của Nguyễn Thái T nên Cơ quan điều tra đã phối hợp với lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Đức Linh tiến hành dừng xe ô tô của Hứa Đại L, yêu cầu T và L về Nhà nghỉ Phương Thảo để thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thái T. Trong quá trình khám xét, T đã tự nguyện giao nộp số ma túy cất giấu ở quầy lễ tân mà T đã mua trước đó.

Theo kết luận giám định xác định số ma túy thu giữ của Nguyễn Thị Phương Th có khối lượng là 998,0873gam Methamphetamine, 147,8910gam Ketamine, 163,3268gam MDMA; số ma túy do Nguyễn Thái T tự nguyện giao nộp là 2,9745gam Methamphetamine, 0,2014gam MDMA, 13,4439gam Ketamine, 12,26gam Codeine.

Quá trình điều tra xác định được ngoài lần vận chuyển trái pháp chất ma túy bị bắt vào ngày 14/10/2019 thì Nguyễn Thị Phương Th còn có một lần vận chuyển trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thái T từ Thành phố Hồ Chí Minh về nhà nghỉ Phương Thảo vào tháng 9/2019 để nhận tiền công 6.000.000đồng.

Tại bản Cáo trạng số 21/CT-VKSBT-P2 ngày 09/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, có nội dung: Truy tố Nguyễn Thái T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự và truy tố Nguyễn Thị Phương Th về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2021/HS-ST ngày 08/3/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, đã tuyên xử:

1/ Áp dụng điểm h khoản 4, 5 Điều 251, Điều 39, khoản 2, 3 Điều 35, Điều 50, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T tù chung thân, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/10/2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Thái T số tiền 80.000.000đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.

2/ Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương Th 16 năm tù, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến tang vật, án phí, và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 16/3/2021, Bị cáo Nguyễn Thái T làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bị cáo bị điều tra viên ép cung, mớm cung, số ma túy trong phòng số 3 không phải của bị cáo, xin được xem xét lại.

Ngày 19/3/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận có Quyết định kháng nghị số 72/QĐ-VKSBT-P1, nội dung: Đề nghị phúc xử lại theo hướng áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội hai lần trở lên” đối với bị cáo Nguyễn Thái T và bị cáo Nguyễn Thị Phương Th, đồng thời tăng hình phạt đối với bị cáo Th.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thái T cho rằng, bị cáo đã bị oan, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại về hành vi thuê bị cáo Th vận chuyển ma túy, vì giữa bị cáo và bị cáo Th không có mối quan hệ thỏa thuận và không có việc giao nhận tiền thuê để vận chuyển số ma túy nêu trên, bị cáo không đưa ma túy cho bị cáo Th, không có những tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh có việc chuyển giao ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại cho bị cáo.

Luật sư Trần Văn Đ và luật sư Phạm Thị Hà L bào chữa cho bị cáo T cũng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại lời kêu oan của bị cáo, vì theo hồ sơ thể hiện các tài liệu chứng cứ để chứng minh đối với hành vi phạm tội của bị cáo như bị cáo trình bày là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại để giải quyết đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Bị cáo Th cho rằng, bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối hận, giúp cho cơ quan pháp luật sớm điều tra để giải quyết vụ án nhanh chóng, tuổi đời còn nhỏ, xin được giữ nguyên bản án sơ thẩm để sớm về sum họp gia đình.

Luật sư Phạm Thị Minh H1 bào chữa cho bị cáo Th cũng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bị cáo Th, trong vụ án này thì bị cáo Th không có kháng cáo, bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Th là phù hợp, nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng, quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, các bị cáo đã có lời thừa nhận đối với từng lần cụ thể và Cơ quan điều tra đã xác minh qua số điện thoại, qua tin nhắn zalo và qua các phương tiện điện tử cũng như lời thừa nhận lúc đầu của các bị cáo, xác định hành vi của bị cáo T, bị cáo Th thuộc trường hợp phạm tội từ 2 lần trở lên là có căn cứ.

Ngoài ra đối với bị cáo Th, số lượng ma túy bị cáo có hành vi tham gia cộng lại thuộc khung hình phạt của khoản 4 điều 250 Bộ luật Hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Th 16 năm tù là chưa nghiêm, đề nghị xử phạt bị cáo Th từ 18 đến 20 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận làm trong hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị:

[2.1] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T:

[2.1.1] Tại các bản tự khai ngày 15/10/2019, 22/10/2019 bị cáo T khai sau khi thuê phòng ở Khách sạn Linh Giang 2, T đi xe ô tô đến nhà một người tên Th3 mua 500 viên thuốc lắc, 150g hàng khay, với giá 187.000.000đồng, số ma túy này được để trong hộp nước yến và đem về để trong phòng 101 khách sạn Linh Giang 2.

Khoảng 2 giờ sau T đi xe ôm đến nhà Th3 mua 1kg ma túy đá với giá 290.000.000đồng bỏ trong túi giấy có chữ “Custas” được quấn băng keo, sau đó mang về phòng 101 khách sạn Linh Giang 2, rồi thuê Nguyễn Thị Phương Th mang về nhà nghỉ Phương Thảo ở huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Tại các Biên bản ghi lời khai ngày 15/10/2019, ngày 16/10/2019, ngày 17/10/2019 và ngày 22/10/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận Nguyễn Thái T đều khai nhận hành vi của mình như trên.

[2.1.2] Những lời khai này của T phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Phương Th (là người vận chuyển số ma túy này về cho T), phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập được như:

Hình ảnh của khách sạn Linh Giang 2 trong ngày 14/10/2019 được trích xuất từ camera an ninh, kết quả, các bị cáo Nguyễn Thái T, Nguyễn Thị Phương Th và Hứa Đại L, Tạ Thị Phương Th1 đều xác định người đàn ông trong ảnh số 10 được ghi vào lúc 10h:29:16 ngày 14/10/2019 là Nguyễn Thái T, trên tay T đang xách 01 túi xách nước yến đi lên cầu thang sau đó đi vào phòng 101 của khách sạn Linh Giang 2; Người đàn ông trong ảnh số 19 được ghi vào lúc 17h:59:13 ngày 14/10/2019 là Nguyễn Thái T trên tay T xách 01 túi ni lông màu trắng đi từ cổng vào khách sạn Linh Giang 2 (T xác nhận người trong ảnh là T đi xe ôm từ đường Cách Mạng Tháng 8 về, trên tay đang xách túi nilon màu trắng).

Thông tin trên tài khoản Zalo của Nguyễn Thị Phương Th được đăng ký bằng sim số 0932.893.715, thể hiện: Ngày 13, 14/10/2019 T và Th liên lạc, trao đổi về việc Th giới thiệu người bán ma túy (thuốc lắc và hàng đá) cho T và T thuê Th vận chuyển ma túy về huỵện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, thể hiện ở các tin nhắn của T gửi cho Th: “Lấy ít kẹo rồi qua em là em về, a ghé bên này lấy ít kẹo rồi qua e”; Các tin nhắn của Th gửi cho T: “Anh có lấy đó k, anh lên coi đồ đi, biểu tượng (icon) có hình “OK”, anh qua thử đồ đi rồi em cầm về dưới cho a”. Lời khai của Th giải thích “đồ” là ma túy đá, “kẹo” là thuốc lắc.

Sao kê tài khoản của Nguyễn Thái T do Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Thuận cung cấp thể hiện: Ngày 14/10/2019, tài khoản của T có phát sinh giao dịch nộp số tiền 100.000.000đồng vào tài khoản rồi thực hiện giao dịch chuyển khoản 02 lần tổng số tiền 85.000.000đồng đến tài khoản của Nguyễn Toàn Th3 qua kênh Internet Banking và Mobile Banking.

Tài liệu về bảng kê chi tiết cuộc gọi đi, gọi đến, tin nhắn của số điện thoại 0911.724.725, 0949.009.113 (số điện thoại của bị cáo T), 0819.559.559 (số điện thoại của Th3) thể hiện các số điện thoại này có liên lạc với nhau trong các ngày 22/9/2019, 23/9/2019, 13/10/2019 và 14/10/2019 là phù hợp với lời khai của bị cáo T tại biên bản ghi lời khai vào ngày 15/10/2019.

Tạ Thị Phương Th1 (là vợ của bị cáo T) khai nhận vào khoảng trưa ngày 14/10/2019, T gọi điện nói Th nộp vào tài khoản của T số tiền 100.000.000đồng nên Th đã đến Ngân hàng TMCP Ngoại thương, Phòng giao dịch huyện Đức Linh nộp vào tài khoản của Nguyễn Thái T số tiền 100.000.000đồng, khi nộp tiền Th ghi thông tin của người nộp tiền là Nguyễn Thái T và ký tên là Nguyễn Thái T.

[2.1.3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Phương Th và người làm chứng Lâm Ngọc Nh cũng khẳng định, số ma túy mà Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ tại nhà nghỉ Phương Thảo vào ngày 14/10/2019 là số ma túy mà T đã thuê Th mang về từ khách sạn Linh Giang 2.

[2.1.4] Bị cáo Nguyễn Thái T khiếu nại rằng, bị Điều tra viên đánh đập, dùng nhục hình, bức cung, mớm cung, đọc cho bị cáo viết bản tự khai. Tuy nhiên, qua nội dung các bản tự khai, lời khai trong các biên bản lấy lời khai, biên bản khám xét cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện lời khai của bị cáo là phù hợp với thực tế khách quan và nội dung, bản chất của vụ án, bị cáo T cũng không đưa ra được chứng cứ gì để chứng minh về việc Điều tra viên đánh đập, dùng nhục hình, bức cung, mớm cung như đã nêu trên.

[2.1.5] Tòa án cấp sơ thẩm xác định số ma túy gồm: 998,0873gam Methamphethamine, 147,8910gam Ketamine và 163,3268gam MDMA mà Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ tại nhà nghỉ Phương Thảo vào ngày 14/10/2019 là của bị cáo Nguyễn Thái T mua về nhằm mục đích bán lại cho người khác, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Do đó kháng cáo của bị cáo không có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận cho rằng, vào các ngày 22/9/2019 và 23/9/2019 thuê bao điện thoại số 0937475401 của Lâm Ngọc Nh cho bị cáo Th mượn để sử dụng và thuê bao điện thoại số 0949009113 của bị cáo T có liên lạc với nhau, nên đủ căn cứ xác định các bị cáo về lần phạm tội vào tháng 9/2019, cộng với lần vào tháng 10/2019 này là phạm tội nhiều lần, nên đề nghị phúc xử lại theo hướng áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ hai lần trở lên” đối với bị cáo Nguyễn Thái T và bị cáo Nguyễn Thị Phương Th.

Xét: Theo hồ sơ thể hiện, các bị cáo phủ nhận những lần phạm tội vào tháng 9/2019, ngoài các lời khai tại cơ quan điều tra thì không thể hiện có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh thời điểm cụ thể về ngày, giờ, khối lượng, chủng loại ma túy và cũng không có cơ sở cho rằng số ma túy thu được tại quầy lễ tân của nhà nghỉ Phương Thảo mà T tự giao nộp gồm có 2,9745gam Methamphetamine, 0,2014gam MDMA, 13,4439gam Ketamin, 12,26gam Codeine là số ma túy còn lại của lần mua bán ma túy trước đó, do không chứng minh được hành vi phạm tội lần trước đó, nên Tòa án cấp sơ thẩm không xác định các bị cáo phạm tội nhiều lần “Phạm tội từ hai lần trở lên” là có căn cứ, hợp pháp.

[2.3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Th:

Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Th với mức án 16 năm tù, trong đó áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự, quy định mức hình phạt đối với số lượng ma túy nêu trên từ 20 năm tù, tù chung thân đến tử hình, nên Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận là có cơ sở, do đó chấp nhận phần kháng nghị này của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

[4] Các phần nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận. Sửa một phần bản án sơ thẩm.

Tuyên xử:

1/ Áp dụng điểm h khoản 4, 5 Điều 251, Điều 39, khoản 2, 3 Điều 35, Điều 50, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T tù chung thân, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/10/2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Thái T số tiền 80.000.000đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.

2/ Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương Th 17 năm tù, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2019.

3/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thái T phải nộp số tiền 200.000đồng án phí HSPT.

4/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

5/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 489/2021/HS-PT

Số hiệu:489/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về