Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 480/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 480/2020/HS-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/12/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 635/2020/HSST ngày 21 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5681/2020/QĐXXST-HS, ngày 05/3/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 3789/2020/HSST-QĐ, ngày 13/11/2020, đối với bị cáo:

Tăng Tôn A; Sinh ngày: 09/11/1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký hộ khẩu thường trú: 389/27/29/9 Tổ 23E, khu phố 2, phường HT, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Phòng trọ số 7, nhà số 389/48/51 tổ 52, khu phố 5, phường HT, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: không rõ; Con bà: Trần Thị D; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Tạm giam từ ngày 07/5/2020, có mặt.

Người bào chữa: Bà Đặng Tịnh Q - Luật sư của Văn phòng Luật sư CV, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Tăng Tôn A theo chỉ định, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị B, sinh năm 1954.

Thường trú: 109 đường N, Phường B, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 25 phút ngày 07/5/2020, tại trước nhà số 19A đường TA16, Khu phố 2, phường TA, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận C phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Tăng Tôn A gói nylon chứa tinh thể không màu, 01 nỏ thủy tinh; 02 điện thoại di động hiệu Iphone và Nokia; 400.000 đồng tiền Việt Nam và 01 xe máy biển số 53V4 - 2969.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tăng Tôn A tại phòng trọ số 7, nhà số 389/48/51 tổ 52, khu phố 5, phường HT, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ 03 gói nylon chứa tinh thể không màu; 01 ống hút nhựa cắt xéo một đầu; 01 cân tiểu ly; 01 cây kéo; 50 túi nylon các loại; 02 ống hút nhựa cắt xéo một đầu; 01 quẹt gas; 01 bình nhựa có gắn nỏ và ống hút; 01 túi nylon màu đen.

Theo kết luận giám định số 780/KLGĐ-H ngày 15/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 gói nylon chứa tinh thể không màu thu giữ A khi bị bắt là chất ma túy có khối lượng 0,5077 gam, loại Methamphetamine; 03 gói nylon chứa tinh thể không màu, thu giữ khi khám xét nơi ở của A là chất ma túy có tổng khối lượng 41,2565 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Tăng Tôn A khai nhận từ khoảng tháng 3 năm 2020 đến ngày bị bắt, A đã 03 lần mua ma túy của người tên Thanh (không rõ lai lịch). Số ma túy mà A mua đều đem về chỗ ở cất giấu, sau đó phân chia thành các gói nhỏ để sử dụng và bán cho người nghiện để kiếm lời, cụ thể:

- Hai lần đầu: A mua 01 gói ma túy giá 4.000.000 đồng và 01 gói giá 4.2000.000 đồng. A đã sử dụng cho bản thân và bán hết cho người nghiện.

- Lần thứ ba: Khoảng 19 giờ ngày 06/5/2020, A liên lạc với Thanh đặt mua 10.000.000 đồng ma túy, thỏa thuận giao dịch tại khu vực đường Nguyễn Thị Kiểu, phường TTH, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại điểm hẹn, Thanh đưa cho A 01 gói ma túy đá và A đưa lại cho Thanh số tiền 10.000.000 đồng. A đem số ma túy này về chỗ ở cất giấu và phân chia thành gói nhỏ để bán cho người nghiện. Lúc 15 giờ ngày 07/5/2020, người có tên Tuấn (không rõ lai lịch) đặt mua 500.000 đồng ma túy và hẹn giao nhận ở khu vực phường TA, Quận C. Sau đó A lấy 01 gói ma túy bỏ vào túi quần và điều khiển xe máy đến điểm hẹn để bán cho Tuấn, nhưng trên đường đi thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 414/CTr-VKS-P1, ngày 29/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Tăng Tôn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Tăng Tôn A thừa nhận toàn bộ khối lượng chất ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ trong vụ án này là của bị cáo mua để bán lại cho các con nghiện. Vào khoảng 15 giờ ngày 07/5/2020, bị cáo điều khiển xe gắn máy biển số 53V4 – 2969 mang theo một gói ma túy đến phường TA, Quận C để bán cho người có tên Tuấn nhưng chưa kịp bán thì bị công an Quận C phát hiện, bắt giữ.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Tăng Tôn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vào tháng 4 năm 2020 bị cáo có hai lần mua chất ma túy của người có tên Thanh về để bán lại, nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự qui định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 năm tù đến 16 năm tù.

Về vật chứng, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử theo qui định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho Tăng Tôn A thống nhất về tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì ngoài tình tiết giảm nhẹ mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa áp dụng cho bị cáo thì Luật sư còn đề nghị Tòa áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bởi, theo Luật sư thì từ lúc nhỏ bị cáo không có cha, còn mẹ thì đi lập gia đình khác nên thiếu tình thương và thiếu sự chăm sóc của cha mẹ; bị cáo chỉ được bà ngoại nuôi dưỡng, không có tiền cho bị cáo đi học, bị mù chữ nên nhận thức về tác tại của hành vi mua bán chất ma túy có phần hạn chế và hiện tại bà ngoại của bị cáo già yếu, mất sức lao động, đang nương tựa vào bị cáo. Với những tình tiết giảm nhẹ như vậy, Luật sư đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa bổ sung và không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo sớm trở về chăm sóc bà ngoại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp vật chứng và những chứng cứ khác được cơ quan điều tra thu thập, có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ để xác định: 0,5077gam chất ma túy, loại Methamphetamine thu giữ khi bắt quả tang và 41,2565 gam chất ma túy, loại Methamphetamine mà cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét tại phòng trọ số 7, nhà số 389/48/51 tổ 52, khu phố 5, phường HT, Quận C là của bị cáo mua để bán lại. Do đó, hành của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình thực hiện hành bị cáo có ba lần mua ma túy của tên Thanh để bán lại, cụ thể: Vào tháng 4 năm 2020 lần đầu bị cáo mua 01 gói chất ma túy loại Methamphetamine giá 4.000.000 đồng, lần thứ hai mua 01 gói ma túy loại Methamphetamine giá 4.2000.000 đồng để bán lại và lần thứ ba vào ngày 06/5/2020 bị cáo mua 10.000.000 đồng với khối lượng và chất ma túy như đã thu giữ. Do đó, bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên”, được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động duy nhất trong gia đình và đang nuôi dưỡng bà ngoại già yếu, mất sức lao động, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về áp dụng hình phạt: Xét tính chất của vụ án mà bị cáo gây ra là đặt biệt nghiêm trọng, nó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất gây nghiện, mà còn là một hiểm họa xã hội nếu số lượng chất ma túy trên bị cáo đem bán hết cho người sử dụng. Với tính chất của vụ án như vậy, đáng lẽ phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung. Song xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên được Hội đồng xét xử chiếu cố, giảm cho bị cáo một phần về hình phạt, mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[ 5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiện chức vụ, cấm hành nghề….”. Nhưng xét thấy bị cáo chưa có nghề nghiệp và mới phạm tội lần đầu nên áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền và như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- 400.000 đồng là tiền mà bị cáo có được từ mua bán chất ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia bị cáo A dùng để liên lạc mua bán ma túy, 01 cân tiểu ly bị cáo dùng để chia nhỏ ma túy để bán lại cho người nghiện. Các vật chứng trên hiện còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone là tài sản cá nhân của bị cáo, quá trình điều tra không chứng minh được bị cáo dùng chiếc điện thoại này để thực hiện hành vi phạm tội, nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả lại cho bị cáo.

- Chiếc xe gắn máy biển số 53V4 – 2969 là tài sản thuộc sỡ hữu của bà Bùi Thị B. Bà B cho bị cáo mượn xe gắn máy trên để làm phương tiện đi làm, bà không biết bị cáo sử dụng đi mua bán trái phép chất ma túy nên căn cứ nên a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả lại chiếc xe trên cho bà.

- Các vật chứng còn lại đều có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và không có giá trị nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Tăng Tôn A 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/5/2020.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Phạt bổ sung Tăng Tôn A 10.000.000 (Mười triệu) đồng, để sung vào ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước các vật chứng sau:

- Số tiền 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng, theo Giấy nộp tiền lập ngày 20/8/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh nộp tại Kho bạc nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, imei: 357721100360544. Mã số: DT2/440BB/2020.

- 01 (Một) cân tiểu ly. Mã số: CAN/440BB/2020. Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 (Một) gói niêm phong số 780/20 (G1) có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Thanh Điềm, thuộc phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh và Cán bộ điều tra Trần Trọng Nghĩa, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. Mã số: GNP1/440BB/2020.

- 01 (Một) gói niêm phong số 780/20 (G2) có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Thanh Điềm, thuộc phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh và Cán bộ điều tra Trần Trọng Nghĩa, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. Mã số: GNP2/440BB/2020.

- 01 (Một) gói niêm phong số 780/20 (G3) có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Thanh Điềm thuộc phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh và Cán bộ điều tra Trần Trọng Nghĩa, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. Mã số: GNP3/440BB/2020.

- 01 (Một) gói niêm phong số 780/20 (G4) có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Thanh Điềm thuộc phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh và Cán bộ điều tra Trần Trọng Nghĩa, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. Mã số: GNP4/440BB/2020.

- 01 (Một) nỏ thủy tinh. Mã số: NO/440BB/2020.

- 01 (Một) hộp giấy màu đỏ. Mã số: HOP/440BB/2020.

- 01 (Một) ống hút nhựa cắt xéo một đầu. Mã số: ONG1/440BB/2020.

- 01 (Một) cây kéo. Mã số: KEO/440BB/2020.

- 50 (Năm mươi) túi nylon các loại. Mã số: TUI1/440BB/2020.

- 02 (Hai) ống hút nhựa cắt xéo một đầu. Mã số: ONG2/440BB/2020.

- 01 (Một) quẹt ga. Mã số: QUET/440BB/2020.

- 01 (Một) bình nhựa có gắn nỏ và ống hút. Mã số: BINH/440BB/2020.

- 01 (Một) túi nylon màu đen. Mã số: TUI2/440BB/2020.

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo Tăng Tôn A 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone số Model: A1687. Mã số: DT1/440BB/2020.

- Trả lại cho bà Bùi Thị B 01 (Một) chiếc xe hai bánh gắn máy Trung Quốc; nhãn hiệu: không xác định; số loại: không xác định; BS: 53V4-2969; dung tích xilanh: không rõ; SK: GC110-000079; SM: GC110E-0000790 (không gương, bửng, đèn trước sau bể, dè trước bể, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra). Mã số: XMAY/440BB/2020.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/440, ngày 08/9/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Về án phí:

Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Tăng Tôn A phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 07/12/2020).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị B vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 480/2020/HS-ST

Số hiệu:480/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về