Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 42/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2023, tại điểm cầu chính Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh B và điểm cầu Trại Tạm giam Công an tỉnh B xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2023/TLST-HS, ngày 26 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

HỨA HNG H (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 01 tháng 8 năm 1968 tại N, tỉnh B; Nơi thường trú: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện N, tỉnh B; Nơi ở hiện tại: Tiểu khu C, thị trấn N, huyện N, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 10/10; Họ và tên cha: Hứa Văn L; Họ và tên mẹ: Nông Thị D, (đã chết); Vợ: Phạm Thị H; Con: có 02; Tiền sự: Không; Tiền án: 01. Tại bản án số 16/2018/HS-ST ngày 07/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ngân Sơn, tỉnh B tuyên phạt Hứa Hồng H1 03 (ba) năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự, ngày 15/4/2021 bị cáo chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B từ ngày 18/01/2023 đến nay. Có mặt tại điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh B.

* Ông Phùng Văn C, sinh năm 2001 - Chiến sỹ bảo vệ Trại tạm giam Công an tỉnh B. Có mặt tại điểm cầu Trại tạm giam Công an tỉnh B.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị H2 - Luật sư Văn phòng L2, thuộc đoàn Luật sư tỉnh B - thuộc điểm cầu chính Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh B. Vắng mặt có lý do.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1975; Trú tại: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện N, tỉnh B;

- Bà Nông Thị X, sinh năm 1990; Trú tại: Tiểu khu B, thị trấn N, huyện N, tỉnh B - thuộc điểm cầu chính Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh B. Đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 18/01/2023 tại khu vực tiểu khu B, thị trấn N, huyện N, tỉnh B, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh bắt quả tang đối với Hứa Hồng H1, sinh năm 1968, nơi thường trú: tiểu Khu B, thị trấn N, huyện N; chỗ ở: tiểu Khu C, thị trấn N, huyện N về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 03 (ba) gói ma túy, loại Heroine dạng cục và bột được gói bằng nilón trong suốt trong túi áo khoác bên trái H1 đang mặc, niêm phong ký hiệu D1; tạm giữ 02 (hai) điện thoại di động; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 97F8 - xxxx; số tiền 8.800.000đ (tám triệu, tám trăm nghìn đồng) và một số giấy tờ liên quan.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hứa Hồng H1 tại tiểu khu C, thị trấn N, huyện N. Kết quả: Phát hiện, thu giữ 18 (mười tám) gói nhỏ ma túy, loại Heroine dạng cục và bột đều được gói bằng các mảnh nilón màu đỏ để trong 01 (một) lọ nhựa niêm phong ký hiệu K2; số tiền 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng) để trong hộp máy bình lọc nước; số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng) trong tủ gỗ; 01 (một) cân điện tử và một số đồ vật liên quan.

Cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng ma túy thu giữ của Hứa Hồng H1:

- Cân chất ma túy bên trong hộp niêm phong ký hiệu D1, cụ thể:

+ Gói ma túy dạng cục và bột thứ nhất có khối lượng 37,44g (ba bảy phẩy bốn bốn gam), sau khi cân niêm phong ký hiệu M1.

+ Gói ma túy dạng cục và bột thứ hai có khối lượng 37,47g (ba bảy phẩy bốn bảy gam), sau khi cân niêm phong ký hiệu M2.

+ Gói ma túy dạng cục và bột thứ ba có khối lượng 37,51 g (ba bảy phẩy năm một gam), sau khi cân niêm phong ký hiệu M3.

- Cân chất ma túy trong phong bì niêm phong ký hiệu K2: gồm 18 (mười tám) gói nhỏ chất ma túy dạng cục và bột có tổng khối lượng là 6,62g (sáu phẩy sáu hai gam), sau khi cân niêm phong ký hiệu M4. Bút lục: 46, 47.

Quyết định trưng cầu giám định số 05/QĐ-CSĐT-PC04 ngày 18/01/2023 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B, trưng cầu giám định chất ma túy thu giữ của Hứa Hồng H1.

Tại bản Kết luận giám định số 43/KL- KTHS ngày 21/01/2023 của Phòng K Công an tỉnh B, kết luận:

Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 37,44g (ba bảy phẩy bốn bốn gam).

Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 37,47g (ba bảy phẩy bốn bẩy gam).

Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 37,51g (ba bảy phẩy năm một gam).

Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu M4 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 6,62g (sáu phẩy sáu hai gam).

Các phong bì niêm phong ký hiệu M1, M2, M3, M4 gửi giám định có tổng khối lượng là 119,04g (một trăm mười chín phẩy không bốn gam).

Sau giám định, mẫu chất trong phong bì ký hiệu M1 còn lại 36,25g (ba sáu phẩy hai năm gam); mẫu chất phong bì ký hiệu M2 còn lại 36,45g (ba sáu phẩy bốn năm gam); mẫu chất trong phong bì ký hiệu M3 còn lại 36,53g (ba sáu phẩy năm ba gam); mẫu chất trong phong bì ký hiệu M4 còn lại 6,40g (sáu phẩy bốn không gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào túi niêm phong mới ký hiệu T30 hoàn trả lại cho cơ quan trưng cầu.

Quá trình điều tra xác định: Buổi sáng ngày 15/01/2023, Hứa Hồng H1 đi xe ô tô khách từ thị trấn N, huyện N đến bến xe khách tỉnh T tìm mua ma túy. Tại đây, H1 gặp một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ, qua nói chuyện H1 nói muốn mua ma túy, loại Heroine, số lượng là 03 (ba) cây, được người đàn ông trả lời là có ma túy và báo giá bán 03 (ba) cây ma túy là 75.000.000đ (bảy mươi năm triệu đồng), H1 đồng ý mua ma túy với số lượng và giá tiền như đã trao đổi. Sau đó người đàn ông đi đâu thì H1 không biết, một lúc sau quay lại đưa cho H1 04 (bốn) gói ma túy loại Heroine, trong đó có 03 (ba) gói to và 01 (một) gói nhỏ, H1 trả cho người đàn ông số tiền là 75.000.000đ (bảy mươi năm triệu đồng) rồi đem số ma túy mua được đi xe ô tô khách đi về cất giấu tại chỗ ở thuộc tiểu khu C, thị trấn N, huyện N. Sau đó, H1 lấy gói ma túy nhỏ trong số 04 (bốn) gói ma túy mua được ra và dùng cân điện tử để chia thành 20 (hai mươi) gói nhỏ và gói lại bằng nilón màu hồng để sử dụng dần và bán cho người khác giá mỗi gói là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). H1 đã sử dụng hết 02 (hai) gói ma túy, còn 18 (mười tám) gói ma túy H1 cất giấu trong lọ nhựa.

Đến khoảng 09 giờ ngày 18/01/2023, có một người phụ nữ không biết tên tuổi, địa chỉ gọi điện thoại cho H1 để hỏi mua 03 (ba) cây ma túy và hẹn H1 đến khu vực ngã ba N - H thuộc tiểu khu B, thị trấn N, huyện N để trao đổi, thỏa thuận việc mua bán ma túy. H1 lấy 03 (ba) gói ma túy mua được ngày 15/01/2003, dự định sẽ bán 03 (ba) cây ma túy với giá 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) và cất giấu tại túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97F8 - xxxx đi đến điểm hẹn để bán ma túy, trên đường đi thì H1 bị tổ công tác Phòng CSĐTTP về ma túy, Công an tỉnh kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ số ma túy đang cất giấu trên người là vật chứng.

Tại Bản cáo trạng số 36/CT-VKSBK-P1 ngày 24 tháng 7 năm 2023 đã quyết định truy tố bị cáo Hứa Hồng H1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

… 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

… b) Heroine... có khối lượng từ 100gam trở lên ...;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng,.... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử;

- Áp dụng điểm b khoản 4 và 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hứa Hồng H1 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Hứa Hồng H1 từ 15 triệu đến 20 triệu đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

Án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo nhất trí với nội dung truy tố và luận tội của Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất trong khuôn khổ của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Hứa Hồng H1 đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 18/01/2023 tại khu vực tiểu khu B, thị trấn N, huyện N, tỉnh B, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh bắt quả tang bị cáo Hứa Hồng H1 đang trên đường mang ma túy đi bán, thu giữ 03 gói ma túy, hêrôin dạng cục và bột có khối lượng 112, 42 (một trăm mười hai phảy bốn hai gam); qua khám xét chỗ ở của H1 thu giữ 18 gói ma túy, hêrôin có khối lượng 6,62g (sáu phảy sáu hai gam). Tổng khối lượng ma túy, loại hêrôin thu giữ 119,04g (một trăm mười chín phẩy không bốn gam).

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là “Heroine... có khối lượng từ 100gam trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Do đó, việc truy tố, xét xử đối với bị cáo về tội danh, điều khoản đã nêu là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, với khối lượng ma túy mua tàng trữ để bán là 119,04g (một trăm mười chín phẩy không bốn gam). Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu rõ ma túy là chất Nhà nước cấm mua bán, song chỉ vì hám lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần buộc bị cáo phải chịu hình phạt nghiêm khắc mới thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật, cũng như đủ sức răn đe và phòng ngừa đối với loại tội phạm ma túy đang ngày một gia tăng và diễn biến phức tạp như hiện nay.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo có 01 tiền án. Tại bản án số 16/2018/HS-ST ngày 07/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ngân Sơn, tỉnh B tuyên phạt bị cáo 03 (ba) năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự, ngày 15/4/2021 bị cáo chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích, nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự là “Tái phạm nguy hiểm”.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Ngoài ra, bị cáo có bố đẻ ông Hứa Văn T được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, do đó cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, quá trình bắt quả tang có thu giữ của bị cáo một khoản tiền, hơn nữa mục đích phạm tội là vụ lợi, nên ngoài hình phạt chính cần buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T30. Mặt trước phong bì có dòng chữ viết tay: “Vụ Hứa Hồng H1 (1968) - Mua bán trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu hình tròn màu đỏ của Phòng K Công an tỉnh B; 01 (một) hộp niêm phong ký hiệu M5. Trên hộp niêm phong có 12 (mười hai) chữ ký không đọc được, có 04 (bốn) dòng chữ “Hứa Hồng H1”, 01 (một) dòng chữ “Trần Văn Đ” và 04 (bốn) dấu hình tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B; 01 (một) cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE màu đen; 01 (một) đĩa nhựa nhỏ màu đen, hình tròn, có tay cầm; 02 (hai) sim số thuê bao 0911809xxx và 0976070xxx gắn trong điện thoại di động loại bàn phím bấm, vỏ màu xanh - xác định là vật không có giá trị sử dụng và vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 (một) điện thoại di động loại bàn phím bấm, vỏ màu xanh, mặt trước và mặt sau đều có dòng chữ Masstel. Điện thoại đã qua sử dụng, có số IMEI1: 355076049271191 và IMEI2: 355076049771190 - xác định bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước.

+ 01 (một) điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng. Điện thoại không có nhãn hiệu và không kiểm tra được thông tin điện thoại; số tiền 8.800.000đ (tám triệu, tám trăm nghìn đồng) tạm giữ của Hứa Hồng H1 trong quá trình bắt quả tang; số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng) tạm giữ tại chỗ ở của Hứa Hồng H1 trong quá trình khám xét (02 khoản) - xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

+ 01 (một) xe mô tô màu đỏ, đen đã qua sử dụng, có gắn biển kiểm soát 97F8 - xxxx. Trên thân xe có dòng chữ XRS WAVE HONDA. Trên máy xe có dòng chữ HONDA; Xe có số khung: JC4326BY049062; Số máy: JC43E5954502 cùng chìa khóa xe; 01 (một) Đăng ký xe mô tô, xe máy số 011xxx do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 23/12/2010 cho xe có biển số 97F8 - xxxx, mang tên chủ xe là Phạm Thị H - xác định đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, cần tịch thu hóa giá: Sung quỹ Nhà nước ½ giá trị, còn lại ½ giá trị trả cho vợ của bị cáo.

+ 01 (một) căn cước công dân số 006068004xxx mang tên Hứa Hồng H1 do Cục Cảnh sát QLHC về TTXH - Bộ C2 cấp ngày 24/6/2021; 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 095000xxx mang tên Hứa Hồng H1 do Công an tỉnh B cấp ngày 15/02/2012; 01 (một) giấy phép lái xe số 0xxx47000xxx hạng AI mang tên Hứa Hồng H1 do Sở GTVT tỉnh B cấp ngày 01/02/2016; 01 (một) thẻ Bảo hiểm y tế mã số DT2060620126xxx mang tên Hứa Hồng H1 do Bảo hiểm xã hội tỉnh B cấp ngày 16/12/2017 - xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả cho bị cáo.

+ 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe mô tô, xe máy, xe máy điện số 893421942xxx đối với xe có biển số 97F8 - xxxx, mang tên chủ xe là Phạm Thị H; 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 026xxx do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 31/7/2013 cho xe có biển số 97B1 - xxx, mang tên chủ xe là Bàn Phù C1; 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 009xxx do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 30/9/2015 cho xe có biển số 97AA - xxx, mang tên chủ xe là Bùi Đức L1; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe mô tô, xe gắn máy số AA24/3647476, đối với xe có biển số 97B1 - xxx, mang tên chủ xe là Bàn Phù C1 - xác định đây là giấy tờ riêng của bà H không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả cho bà Phạm Thị H.

+ Số tiền 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng) tạm giữ tại chỗ ở của Hứa Hong H1 trong quá trình khám xét - xác định số tiền này thuộc sở hữu của bà Nông Thị X gửi bị cáo, nên cần trả cho bà X, * Trong vụ án còn có:

- Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Hứa Hồng H1 vào ngày 15/01/2023 tại bến xe khách tỉnh Thái Nguyên. Quá trình điều tra xác định, Hứa Hồng H1 không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

- Đối với người phụ nữ đã gọi điện thoại hỏi mua ma túy của Hứa Hồng H1 ngày 18/01/2023. Quá trình điều tra xác định: Hứa Hồng H1 không lưu số điện thoại nên không nhớ được số điện thoại của người phụ nữ này, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại và yêu cầu Tập đoàn V và Tổng công ty H3 (V1) cung cấp chi tiết lịch sử liên lạc đối với 02 (hai) số thuê bao số 0976070xxx và số 0911809xxx của Hứa Hồng H1, đến khi kết thúc điều tra nhưng chưa có kết quả trả lời. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hứa Hồng H1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 4 và 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hứa Hồng H1 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 18/01/2023.

2. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo H1 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

Việc thi hành án khoản tiền phạt bổ sung được thực hiện theo Điều 357 của Bộ luật Dân sự và Luật thi hành án dân sự.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T30. Mặt trước phong bì có dòng chữ viết tay: “Vụ Hứa Hồng H1 (1968) - Mua bán trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu hình tròn màu đỏ của Phòng K Công an tỉnh B; 01 (một) hộp niêm phong ký hiệu M5. Trên hộp niêm phong có 12 (mười hai) chữ ký không đọc được, có 04 (bốn) dòng chữ “Hứa Hồng H1”, 01 (một) dòng chữ “Trần Văn Đ” và 04 (bốn) dấu hình tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B; 01 (một) cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE màu đen; 01 (một) đĩa nhựa nhỏ màu đen, hình tròn, có tay cầm; 02 (hai) sim số thuê bao 0911809xxx và 0976070xxx gắn trong điện thoại di động loại bàn phím bấm, vỏ màu xanh.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước.

01 (một) điện thoại di động loại bàn phím bấm, vỏ màu xanh, mặt trước và mặt sau đều có dòng chữ Masstel, điện thoại đã qua sử dụng, có số IMEI1: 355076049271191 và IMEI2: 355076049771190.

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo.

01 (một) điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng. Điện thoại không có nhãn hiệu và không kiểm tra được thông tin điện thoại; số tiền 8.800.000đ (tám triệu, tám trăm nghìn đồng); số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

- Tịch thu hóa giá 01 (một) xe mô tô màu đỏ, đen đã qua sử dụng, có gắn biển kiểm soát 97F8 - xxxx. Trên thân xe có dòng chữ XRS WAVE HONDA. Trên máy xe có dòng chữ HONDA; Xe có số khung: RLHJC4326BY049062; số máy: JC43E5954502 cùng chìa khóa xe kèm 01 (một) Đăng ký xe mô tô, xe máy số 011xxx do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 23/12/2010 cho xe có biển số 97F8 - xxxx, mang tên chủ xe là Phạm Thị H, sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe, còn lại ½ giá trị trả cho bà Phạm Thị H.

- Trả cho bị cáo 01 (một) căn cước công dân số 006068004xxx mang tên Hứa Hồng H1 do Cục Cảnh sát QLHC về TTXH - Bộ C2 cấp ngày 24/6/2021; 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 095000xxx mang tên Hứa Hồng H1 do Công an tỉnh B cấp ngày 15/02/2012; 01 (một) giấy phép lái xe số 0xxx47000xxx hạng A1 mang tên Hứa Hồng H1 do Sở GTVT tỉnh B cấp ngày 01/02/2016; 01 (một) thẻ Bảo hiểm y tế mã số DT2060620126xxx mang tên Hứa Hồng H1 do Bảo hiểm xã hội tỉnh B cấp ngày 16/12/2017.

- Trả lại cho bà Phạm Thị H 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe mô tô, xe máy, xe máy điện số 893421942xxx đối với xe có biển số 97F8 - xxxx mang tên chủ xe là Phạm Thị H; 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 026xxx do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 31/7/2013 cho xe có biển số 97B1 - xxx mang tên chủ xe là Bàn Phù C1; 01 (một) Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 009xxx do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 30/9/2015 cho xe có biển số 97AA - xxx mang tên chủ xe là Bùi Đức L1; 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe mô tô, xe gắn máy số AA24/3647476, đối với xe có biển số 97B1 - xxx, mang tên chủ xe là Bàn Phù C1 - Trả cho bà Nông Thị X số tiền 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng).

(Tình trạng, ký hiệu, số lượng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an tỉnh B và Cục thi hành án dân sự tỉnh B).

4. Án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; quy định về trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hứa Hồng H1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 42/2023/HS-ST

Số hiệu:42/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về