Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 414/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 414/2021/HS-PT NGÀY 12/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 416/2021/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thị Thùy T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Thị Thùy T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 13/9/1987 tại Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKNKTT: thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Quốc T và bà Văn Thị H; Có chồng là Trần Công C và có 02 người con, (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị bắt ngày 02/01/2020, bị cáo đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Nguyễn Thành Đ - Luật sư Công ty Luật TNHH HTV S thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, bào chữa theo yêu cầu của bị cáo, có mặt tại phiên tòa.

Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng.

Ngoài ra trong vụ án còn có những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 22 giờ ngày 02/01/2020 tại khu vực ngã tư đường P - Đ, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; Công an quận C, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Trần Thị Thùy T vứt 01 (một) gói ni lông màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục vào gốc cây đối diện trụ điện 474 E10, thu giữ:

- 01 (một) gói ni lông màu trắng kích thước (11,5 x 7) cm bên trong chứa chất bột dạng cục, bị vỡ ra thành nhiều cục lớn nhỏ, niêm phong (kỷ hiệu PK 01);

- 01 (một) điện thoại di động OPPO màu đen gắn sim số 0932575452.

Hồi 22 giờ 55 phút ngày 02/01/2020 tại số 122 đường P, tổ 70 phường H, quận C, TP Đà Nẵng, ông Lê Đ A (trú Phòng 510, nhà 4 chung cư P) giao nộp Công an quận C, thành phố Đà Nẵng 01 (một) thẻ nhớ ghi dữ liệu từ Camera tại Khu vực ngã tư P - Đ. Do quá trình cài đặt nên thời gian hiển thị trên màn hình video nhanh hơn so với thời gian thực tế 60 phút.

Tại Kết luận giám định số: 27/GĐ-MT ngày 10/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Chất bột dạng cục, màu trắng trong gói ni lông niêm phong (ký hiệu PK1) gửi giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng mẫu chất bột: 18, 784 gam.

Tại Kết luận giám định số: 48/GĐ-MT ngày 21/02/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận:

- Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh của tệp video gửi giám định.

- Theo hình ảnh và khung thời gian hiển thị trên hình ảnh của tệp tin video gửi giám định, trong khoảng thời gian từ 22 giờ 58 phút đến 22 giờ 59 phút xuất hiện 1 người đi bộ dưới lòng đường Phía bên phải (theo hướng di chuyển của người này) có những hành động như sau:

+ Vào lúc 22 giờ 58 phút 30 giây người này đang đi bộ dưới lòng đường, trên tay trái cầm một vật (không xác định được là vật gì) đến 22 giờ 58 phút 34 giây có hành động đưa tay phải lên vị trí vùng hông bên phải;

+ 22 giờ 58 phút 37 giây người này bước lên lề đường cùng chiều di chuyển và đi đến sát gốc cây; sau đó cúi người xuống, đồng thời tay phải đưa xuống theo chiều cúi người;

+ 22 giờ 58 phút 41 giây người này bước xuống lại lòng đường; 22 giờ 58 phút 42 giây có hành động đưa tay phải lên khuôn mặt và tiếp tục di chuyển về phía trước, đến 22 gờ 58 phút 56 giây có hành động đưa vật đang cầm ở tay trái lên vùng phía bên trái của khuôn mặt.

Quá trình điều tra xác định:

Tối ngày 02/01/2020, Trần Thị Thùy T từ nhà tại K334/H2/14 đường T, phường H, quận C, TP Đà Nẵng mang theo 01 (một) gói ma túy Heroin trong người đi bộ ra cây xăng Y - B và gặp H (không rõ nhân thân, lai lịch) đang đổ xăng, T nhờ H (đi ô tô không rõ biển kiểm soát) theo chỉ dẫn của T để qua nhà Nguyễn Thanh Đ (Bi) (H không biết nhà Đ). Khi đến ngã tư P - Đ, TP Đà Nẵng, T xuống xe vì H có việc đi gấp. T tiếp tục đi bộ trên đường P, đến gốc cây xanh sát Trung tâm võ thuật Teakwondo (số 122 P) T cầm gói ma túy đặt dưới gốc cây và tiếp tục đi bộ, vừa đi vừa sử dụng điện thoại số 0932575452 liên lạc cho Đ (Bi) có số điện thoại 0905921392 để bán ma túy nhưng chưa kịp bán thì bị Công an quận C, TP Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang cách vị trí gói ma túy T đặt khoảng 10m, thu giữ gói ma túy trên.

Ngoài ra, trưa ngày 02/01/2020 T có bán 01 (một) gói ma túy Heroin cho Nguyễn Thanh Đ (Bi) với giá 22.500.000đ (hai mươi hai triệu, năm trăm ngàn đồng) và có cho Đ thêm một ít ma túy đá, tại nhà của Đ. số ma túy này sau khi mua, Đ đã sử dụng một ít số còn lại bị phát hiện, bắt quả tang thu giữ. Lần bán ma túy này, Lê Thị Quỳnh Thơ (vợ của Nguyễn Thanh Đ) biết Đ có đưa tiền cho T (không rõ số tiền và ma túy bao nhiêu) vì khoảng 17 giờ cùng ngày Đ nói lại với Thơ về việc mua ma túy của T lúc trưa với số tiền đưa cho T là 22.500.000đ (Hai mươi hai triệu, năm trăm ngàn đồng), liền ngay sau đó Đ bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 18,182 gam ma túy Heroin, 0,899 gam ma túy loại Methamphetamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 29/6/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

I. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Thùy T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thùy T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 02/01/2020.

II. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Thùy T số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) sung vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/7/2021, bị cáo Trần Thị Thùy T nộp đơn kháng cáo kêu oan, cho rằng bị cáo không phạm tội mua bán ma túy.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra: biên bản v/v trích dữ liệu cuộc gọi trên điện thoại di động, biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, bảng tường trình, kết quả giám định hàm lượng ma túy, kết quả giám định dữ liệu camera, có cơ sở xác định bị cáo có hai lần bán ma túy cho Đ vào ngày 02/01/2020, một lần vào buổi trưa tại nhà Đ, một lần vào buổi tối chưa giao dịch thì bị bắt. Bị cáo kêu oan nhưng các chứng cứ cho thấy bị cáo không oan. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 17 năm tù là đúng. Vì vậy, đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bản án sơ thẩm dựa vào lời khai của Đ, Thơ, Toàn để xét xử bị cáo là chưa có cơ sở, vì lời khai của Thơ không khẳng định T bán ma túy cho Đ vào lúc trưa ngày 01/02/2020. Bị cáo không bị bắt lúc cầm gói ma túy trong tay mà bị bắt lúc đi cách xa gốc cây khoảng 10m nên không thể khẳng định gói ma túy là của bị cáo. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, đề nghị tuyên bị cáo không phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T kêu oan và cho rằng bị cáo không có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Nguyễn Thanh Đ như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết. Tuy nhiên, qua lời khai của bị cáo, cùng với toàn bộ các tài liệu, chứng cứ, vật chứng thu giữ có tại hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, thể hiện:

[2] Bị cáo Trần Thị Thùy T và Nguyễn Thanh Đ khai nhận trước đây có quen biết nhau khi cả hai cùng đi điều trị Methadone để cai nghiện ma túy, sau đó Đ biết bị cáo T mua bán ma túy loại Hêrôin nên liên hệ mua để sử dụng.

[3] Vào lúc 19 giờ ngày 02/01/2020, Công an quận C, thành phố Đà Nẵng kiểm tra hành chính bắt quả tang thu giữ vật chứng là ma túy tại nhà của Đ (Kết luận giám định của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng số ma túy thu giữ có tổng khối lượng gồm 18,182 gam ma túy Hêrôin, 0,899 gam ma túy loại Methamphetamine). Nguyễn Thanh Đ khai mua của bị cáo T vào trưa ngày 02/01/2020, bị cáo T đến nhà Đ và bán cho Đ 01 gói ma túy Hêrôin với giá 22.500.000đ. Lời khai của Đ phù hợp với tài liệu thu được từ các nội dung tin nhắn của điện thoại bị cáo T (số 0932575452) và điện thoại của Đ (số 0905.921392) tại “Biên bản v/v trích thông tin trên điện thoại” (bút lục số 82); “Biên bản v/v trích dữ liệu cuộc gọi trên điện thoại di động sim số 0932575452” (bút lục số 83); phù hợp với các biên bản ghi lời khai của bị cáo T (bút lục số 67-68). Việc bị cáo khai mang tiền đến nhà Đ để cho mượn là không hợp lý và không phù hợp với lời khai của Đ.

[4] Sau khi bị bắt giữ, Đ đã tích cực hợp tác với cơ quan Công an quận C, thành phố Đà Nẵng trong việc phát hiện tội phạm người bán ma túy, Đ đã sử dụng điện thoại (số 0905921392) liên lạc với bị cáo T hỏi mua thêm số lượng ma túy như đã bán vào trưa ngày 02/01/2020 và được bị cáo T đồng ý hẹn Đ khoảng 22 giờ đêm cùng ngày đến tại khu vực đường P để giao ma túy. Trên cơ sở đó, Công an quận C, thành phố Đà Nẵng mật phục phát hiện bị cáo T có dấu hiệu nghi vấn phạm tội về ma túy, nên đã tiếp cận áp sát thì bị cáo T vứt một gói ni lông màu trắng vào một gốc cây đối diện trụ điện 474 E10, tiến hành thu giữ vật chứng gói ni lông màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục, cách vị trí bị cáo đang đứng là 10 mét.

[5] Mặc dù, bị cáo có lời khai không thừa nhận đó là gói ma túy của bị cáo mang theo để bán cho Đ nhung tại Bảng tường trình ngày 12/01/2020 (bút lục số: 61) bị cáo viết: “Vào lúc 9 giờ tối tôi đi bộ ... đường P tôi có cầm gói ma túy đặt xuống gốc cây trên đường P rồi tiếp tục đi bộ thì bị bắt quả tang và thu giữ 01 điện thoại và 01 gói ma túy...”; tại Bảng tường trình ngày 12/01/2020 (bút lục số 62); Biên bản hỏi cung ngày 12/01/2020 (bút lục số 72- 73) bị cáo khai nhận gói ma túy Công an quận C, thành phố Đà Nẵng thu giữ tại gốc cây đối diện trụ điện 474 E10 là của bị cáo mua của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) tại Công viên 29/3 với giá 7.000.000đ (bảy triệu đồng) vào ngày 31/12/2019.

[6] Lời khai trên của bị cáo phù hợp với “Biên bản bắt người phạm tội quả tang”, kèm sơ đồ hiện trường (bút lục số 06-08); phù hợp với kết quả giám định dữ liệu camera ghi lại hình ảnh tại khu vực ngã tư P - Đ (bút lục số 14) tại Kết luận giám định số: 48/GĐ-MT ngày 21/02/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, mô tả cụ thể hành động của bị cáo khi di chuyển tại khu vực này, trong đó có hành động: “đi đến sát gốc cây; sau đó cúi người xuống, đồng thời tay phải đưa xuống theo chiều cúi người”.

[7] Với những tài liệu, chứng cứ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm kết luận trong ngày 02/01/2020 bị cáo T đã hai lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Nguyễn Thanh Đ là có căn cứ. Trong đó lần thứ nhất các bên giao dịch tại nhà của Đ vào buổi trưa (theo Kết luận giám định của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng số ma túy thu giữ tại nhà của Đ có tổng khối lượng gồm 18,182 gam ma túy Hêrôin, 0,899 gam ma túy loại Methamphetaminee) và lần thứ hai vào tối cùng ngày chua giao dịch thì bị bắt quả tang. Tại Kết luận giám định số: 27/GĐ-MT ngày 10/01/2020 của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Chất bột dạng cục, màu trắng trong gói ni lông niêm phong (ký hiệu PK01) gửi giám định là ma túy loại Hêrôin có khối lượng là: 18,784 gam” (BL 18). Như vậy, tổng khối lượng ma túy bị cáo T phải chịu trách hình sự trong việc thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thanh Đ gồm 02 (hai) lần trong ngày 02/01/2020 là 36,996 gam loại Hêrôin và 0,899 gam loại Methamphetamine.

[8] Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng:

[9] Bị cáo kháng cáo cho rằng không mua bán ma túy, đề nghị công chiếu đoạn video là bằng chứng trong vụ án, giám định dấu vân tay trên gói ni lông thu giữ tại gốc cây, triệu tập người làm chứng là ông Nguyễn Trần Nhật Toàn. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

[10] Về việc công chiếu đoạn video: Dữ liệu camera ghi lại hình ảnh tại khu vực ngã tư P - Đ do ông Lê Đ A cung cấp 01 thẻ nhớ ghi dữ liệu từ camera, ông Lê Đ A xác nhận do quá trình cài đặt nên thời gian hiển thị trên màn hình video nhanh hơn so với thời gian thực tế khoảng 60 phút (bút lục số 14), đã được Công an quận C, thành phố Đà Nẵng trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số 48/C09C- DD6 ngày 21/02/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng đã mô tả hành động của bị cáo khi di chuyển tại khu vực này, hành động cử chỉ của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến là ông Lương Thanh Hoài và ông Nguyễn Trần Nhật Toàn, nên yêu cầu công chiếu lại đoạn video là không cần thiết.

[11] Về giám định dấu vân tay trên gói ni lông: Bị cáo khai tại ngã tư P - Đ có cúi xuống cầm gói ma túy và có lời khai nhận gói ma túy là của bị cáo nên trên gói ni lông có dấu vân tay của bị cáo. Do đó, việc giám định dấu vân tay của bị cáo trên gói ni lông là không cần thiết.

[12] Về triệu tập người làm chứng là ông Nguyễn Trần Nhật Toàn: Tòa án đã triệu tập hợp lệ người làm chứng là ông Nguyễn Trần Nhật Toàn tham gia phiên tòa nhung ông Toàn vắng mặt. Ông Toàn đã có lời khai tại hồ sơ vụ án nên việc người làm chứng vắng mặt không ảnh hưởng tới việc xét xử theo quy định tại Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo và quan điểm của Luật sư bào chữa cho rằng bị cáo không phạm tội mua bán ma túy.

[13] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[14] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thùy T;

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thùy T 17 (mười bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 02/01/2020.

3. Án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Trần Thị Thùy T phải chịu 200.000đ.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 414/2021/HS-PT

Số hiệu:414/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về