Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2022/TLHS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị M (tên gọi khác: không); sinh ngày 02/02/1979 tại Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 10, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Nguyễn Văn Đ (đã chết); con bà: Phạm Thị C, sinh năm: 1949; Gia đình có 7 anh chị em, bị cáo là con thứ 5; có chồng là: Võ Thanh L (đã chết); có 1 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn T, Văn phòng luật sư An Toàn thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; (có mặt);

* Những người chứng kiến:

1.Ông Hà Việt D, sinh năm 1962; Trú tại: Tổ 18, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt).

2.Ông Nguyễn Quang T1, sinh năm 1973; Trú tại: Tổ 3, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt).

3.Ông Lương Đức H, sinh năm 1961; Trú tại: Tổ 10, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt).

4.Chị Võ Minh H1, sinh năm 2001; Trú tại: Tổ 10, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 16/02/2022, trên cơ sở nguồn tin báo của quần chúng nhân dân, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên kiểm tra tại chỗ ở của Nguyễn Thị M tại tổ 10, phường TL, TP TN, tỉnh Thái Nguyên, phát hiện M đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. M tự giác khai nhận đang cất giấu ma túy trong người. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên trái M đang mặc có 03 túi nilon bên trong đều chứa cục chất bột màu trắng (M khai đó là ma túy loại Heroine của mình để bán cho khách kiếm lời) – niêm phong ký hiệu Q. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị M đồng thời đưa M cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra làm rõ.

Hồi 13 giờ 20 phút cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị M tại tổ 10, phường TL, TP TN, tỉnh Thái Nguyên: Phát hiện, thu giữ trên giường trong phòng ngủ của M 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu trắng có lắp sim số thuê bao 0358.548.711 – được niêm phong ký hiệu Đ;

01 thẻ căn cước công dân số 019179001890 mang tên Nguyễn Thị M. Thu giữ trong két sắt trong phòng ngủ của M số tiền 10.000.000đ.

Kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu trắng có lắp sim số thuê bao 0358.548.711 thu giữ của M: Không có dữ liệu liên quan.

Tại Kết luận giám định số 415 ngày 24/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Các cục chất bột màu trắng thu giữ của M là chất ma túy, loại Heroine. Tổng khối lượng thu giữ là 108,49 gam.

Quá trình điều tra đã làm rõ hành vi phạm tội của bị c áo như sau: Khoảng 19 giờ ngày 30/01/2022, khi Nguyễn Thị M đang ở nhà của mình tại tổ 10, phường Tân Long, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên thì có người nam giới tên C1 (M không biết họ tên đệm, địa chỉ cụ thể) đến và bán cho M 03 gói Heroine với giá 89.000.000đ. M đã thanh toán cho C1 35.000.000đ, số còn lại M hẹn C1 khi nào bán được ma túy sẽ thanh toán hết. Sau khi mua được ma túy, M đem cất giấu tại gian bếp phía sau nhà của mình. Đến khoảng 12 giờ ngày 16/02/2022, M lấy toàn bộ số ma túy loại Heroine đó cất vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc để đem đi bán kiếm lời với giá 90.000.000đ. Nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 40/CT- VKS- P1 ngày 23/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố Nguyễn Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi trình bày tóm tắt nội dung vụ án; đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên cáo trạng truy tố về tội danh đối với bị cáo; từ đó đề nghị áp dụng điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M mức án 20 năm tù; phạt bổ sung bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng; trả cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị M; Tạm giữ của bị cáo 1 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE và số tiền 10.000.000đ đã thu giữ tại nhà bị cáo để đảm bảo thi hành án cho bị cáo; tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại theo Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Buộc bị cáo phải chịu án phí.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đưa ra quan điểm: bị cáo là người có nhân thân tốt, không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay luôn thành khẩn khai báo; bị cáo có bố đẻ được nhà nước tặng thưởng Huy chương nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Số ma túy là 108,49 gam đã bị công an kịp thời phát hiện thu giữ nên chưa phát tán ra ngoài. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án phù hợp theo quy định của pháp luật. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn hoặc giảm một phần hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo không tranh luận gì, nhất trí với lời bào chữa của vị Luật sư. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1] Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên cơ quan cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên; của người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đúng pháp luật.

Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hôm nay, có 3 người chứng kiến vắng mặt nhưng những người này đã có đủ lời khai tại cơ quan điều tra, xét thấy sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Hội đồng xét xử sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, của vị luật sư và người tham gia tố tụng đã thảo luận và quyết định: tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật .

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay là phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 30/01/2022, tại nhà của Nguyễn Thị M thuộc tổ 10, phường TL, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, bị cáo M đã mua của người nam giới có tên là C1 (M không biết họ tên đệm, địa chỉ cụ thể) 108,49 gam Heroine với giá 89.000.000đ. M đã thanh toán cho C1 35.000.000đ, số tiền còn lại M hẹn C1 khi nào bán được ma túy sẽ thanh toán hết. Sau khi mua được ma túy, M đem cất giấu tại gian bếp phía sau nhà của mình. Đến khoảng 12 giờ ngày 16/02/2022, M lấy toàn bộ số ma túy nêu trên cất vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc để đem đi bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang.

Với hành vi trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều luật như sau:

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy.

“1. Người nào….Mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm;

2….

4.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

a,..

b, Heroine… có khối lượng 100 gam trở lên”;

[3] Xét tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý sử dụng chất ma túy của nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác như trộm cắp, cướp của, giết người, gây mất trật tự trị an xã hội, gây sự hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Qua thực tế và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng cho chúng ta thấy: diễn biến của tình hình tội phạm ma túy trên toàn quốc cũng như trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có chiều hướng gia tăng với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nhà nước ta đang đề ra các biện pháp nhằm loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Do đó, cần xét xử nghiêm minh đối với bị cáo.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, là người không biết chữ nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo và có bố đẻ được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xem xét áp dụng hình phạt phù hợp theo quy định của pháp luật, đảm bảo đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Về vật chứng vụ án được xử lý theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự cụ thể:

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã thu giữ của bị cáo, theo bị cáo khai không sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội và số tiền 10.000.000đ thu giữ tại nhà bị cáo, theo bị cáo khai là tiền phúng viếng khi chồng bị cáo chết nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Trả cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị M.

- Các vật chứng thu còn lại cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận những lời đề nghị nêu trên. Xét đề nghị của vị luật sư. Hội đồng xét xử cần xem xét và quyết định theo quy định của pháp luật.

[9] Trong quá trình điều tra, bị cáo khai đã mua ma túy của một người có tên là C1 (không rõ họ, tên đệm và địa chỉ), do đó cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị M phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy",

1.Áp dụng điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/02/2022.

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị M 10 ( mười) triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự :

* Tịch thu tiêu hủy gồm:

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu L có chữ ký của Nguyễn Đăng Hiệp, Lê Xuân Hoàn, Đỗ Thu Hà, Nguyễn Thanh Hiếu, Hà Việt D, Nguyễn Quang T1, điểm chỉ ngón trỏ bàn tay phải của Nguyễn Thị M và 03 dấu hình tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “106,46 gam (Một trăm linh sáu phẩy bốn mươi sáu gam) chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine phát hiện thu giữ bắt quả tang Nguyễn Thị M ngày 16/02/2022”.

- 01(một) bì niêm phong ký hiệu V có chữ ký của Nguyễn Đăng Hiệp, Lê Xuân Hoàn, Đỗ Thu Hà, Nguyễn Thanh Hiếu, Hà Việt D, Nguyễn Quang T1, điểm chỉ ngón trỏ bàn tay phải của Nguyễn Thị M và 03 dấu hình tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “ Vỏ bao gói bọc ngoài các cục chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Thị M ngày 16/02/2022”.

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu G có chữ ký của Trương Đăng Tam, Vũ Tuyết Ngọc, Ma Quốc Huy và hình dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “Hoàn trả 2,008 gam mẫu G còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu G vụ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1979. Phạm tội về ma túy”.

*Trả cho bị cáo 01(Một) thẻ căn cước công dân số 019179001890 mang tên Nguyễn Thị M, sinh ngày 02/02/1979, nơi thường trú: Tổ 10, phường TL, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, do Cục Cảnh sát QLHC về TTXH- Bộ Công an cấp ngày 13/4/2021.

* Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo gồm: số tiền 10.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 1 chiếc điện thoại di động đựng trong 01 (một) bì niêm phong ký hiệu Đ1 có chữ ký của Nguyễn Đăng Hiệp, Lê Xuân Hoàn, Đỗ Thu Hà, Nguyễn Thanh Hiếu, Hà Việt D, Nguyễn Quang T1, điểm chỉ ngón trỏ bàn tay phải của Nguyễn Thị M và 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Thái Nguyên, bên ngoài ghi: “ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG NHÃN HIỆU IPHONE, VỎ MÀU TRẮNG số thuê bao 0358.548.711; IMEI:

352084074117738 tạm giữ của Nguyễn Thị M ngày 16/02/2022”.

(Tiền và các vật chứng trên hiện đang có tại tài khoản và kho của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên theo ủy nhiệm chi số 166 ngày 13/5/2022 của Công an tỉnh Thái Nguyên và biên bản về việc giao nhận vật chứng số 60 ngày 20/5/2022).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Thị M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về