Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH Đ

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phạm Ngọc A, sinh năm 2000 tại tỉnh N. Nơi cư trú: Khu phố K, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Ngọc Nh và bà Lê Thị M; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2021 tại Nhà tạm giữ công an huyện N cho đến nay (có mặt).

2. Mai Trung Kiên Liên Qu, sinh năm 1998 tại tỉnh N. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện H, tỉnh L; Chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã P, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Tiến A và bà Trần Thị L; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2021 tại Nhà tạm giữ công an huyện N cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Ngọc A là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 10 giờ ngày 26/8/2021, Phạm Ngọc A điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 37L2-053.82 của ông Phạm Ngọc Nh (sinh năm 1974- ngụ tại xóm 6, xã H, huyện Q, tỉnh A) đi từ phòng trọ của mình ở khu phố K, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đ đến đường hẻm gần cây xăng Mười T thuộc ấp T, xã P, huyện N gặp người đàn ông (không rõ nhân thân) mua 02 gói ma túy đá với giá 400.000đồng. Sau khi mua được ma túy, Phạm Ngọc A quay trở về phòng trọ của mình rồi lấy ra một ít để sử dụng, số ma túy còn lại Phạm Ngọc A cất giấu vào trong túi quần bên phải. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Mai Trung Kiên Liên Qu liên lạc với Phạm Ngọc A thông qua mạng xã hội zalo hỏi mua 700.000đồng ma túy đá, Phạm Ngọc A đồng ý và hẹn gặp Qu tại chốt phòng chống dịch Covid trên đường đi vào khu chợ Bắc thuộc khu phố K, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đ. Đến 12 giờ 30 phút ngày 26/8/2021, Phạm Ngọc A cất giấu 02 gói ma túy trên trong túi quần bên phải rồi điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 37L2-053.82 đến chốt phòng dịch đứng đợi Qu. Qu đi bộ từ phòng trọ của mình ở ấp T, xã P, huyện N đến gặp Phạm Ngọc A, Phạm Ngọc A đưa cho Qu 02 gói ma túy rồi Qu đưa cho Phạm Ngọc A số tiền 500.000đồng, thiếu nợ 200.000đồng. Trong lúc Qu cất giấu 02 gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải, còn Phạm Ngọc A cất tiền vào ví thì bị Công an thị trấn H, huyện N phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

* Tang vật của vụ án:

- 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng thu giữ trong túi quần quần bên phải của Mai Trung Kiên Liên Qu;

- 500.000đồng (năm trăm ngàn đồng) thu giữ của Phạm Ngọc A;

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 37L2-053.82;

- 01 điện thoại di động hiệu Sam sung, màu xanh thu giữ của Mai Trung Kiên Liên Qu;

- 01 điện thoại di động hiệu oppo, màu vàng kim thu giữ của Phạm Ngọc A.

* Tại Kết luận giám định số: 1759/KLGĐ-PC09 ngày 31/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định 01 phong bì được niêm phong vẫn còn nguyên vẹn (ký hiệu M), trên phong bì có các chữ kí, họ tên Phạm Ngọc A, Mai Trung Kiên Liên Qu, Lê Đình Tr và hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn H, huyện N, tỉnh Đ. Sau khi mở niêm phong, bên trong phong bì có 02 gói nylon hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng. Kết quả giám định xác định: mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1948 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1526 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

* Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKS-NT ngày 25/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Phạm Ngọc A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017); truy tố bị cáo Mai Trung Kiên Liên Qu về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Tại phiên tòa xét xử, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Phạm Ngọc A từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Mai Trung Kiên Liên Qu từ 18 đến 24 tháng tù.

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị: Tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1526 gam trong niêm phong số: 1759/KLGĐ-PC09 ngày 31/8/2021. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu sam sung màu xanh của Mai Trung Kiên Liên Qu, 01 điện thoại di động hiệu oppo màu vàng kim của Phạm Ngọc A. Buộc bị cáo Qu, bị cáo A giao nộp số tiền 200.000đồng dùng để mua ma túy sung ngân sách Nhà nước.

Sau khi nghe xong bản luận tội, các bị cáo A, Qu không có ý kiến gì và không tranh luận đối với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo bị cáo A, Qu tại phiên tòa: Các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: Vào ngày 26/8/2021, Phạm Ngọc A đã thực hiện hành vi bán 02 gói ma túy loại Methamphetamine cho Mai Trung Kiên Liên Qu tại khu phố K, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đ với số tiền 700.000 đồng. A đã bán ma túy cho Qu, Qu đã nhận ma túy và cất giấu ma túy trong túi quần bên phải nhằm mục đích để sử dụng. Qu trả cho A số tiền 500.000đồng, còn thiếu 200.000đồng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Căn cứ vào lời khai của các bị cáo có tại hồ sơ, các tài liệu, chứng cứ thu thập trong vụ án, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Ngọc A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); hành vi của bị cáo Mai Trung Kiên Liên Qu đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cáo trạng số 36/CT-VSK.NT ngày 25/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ.

[3]. Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: các bị cáo có nhân thân tốt.

Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi nhuận, muốn có tiền tiêu xài và vì mục đích cá nhân các bị cáo đã thực hiện hành vi, bất chấp hậu quả xảy ra, thể hiện sự xem thường pháp luật các bị cáo. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không bị tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4]. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1526 gam trong niêm phong số: 1759/KLGĐ-PC09 ngày 31/8/2021 là tang vật vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 500.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu sam sung màu xanh của Mai Trung Kiên Liên Qu, 01 điện thoại di động hiệu oppo màu vàng kim của Phạm Ngọc A là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Buộc bị cáo Qu, bị cáo A giao nộp số tiền 200.000đồng dùng để mua ma túy sung ngân sách Nhà nước.

[5]. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Phạm Ngọc A, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục xác minh điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[6]. Đối với xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 37L2-053.82 qua xác minh là của ông Phạm Ngọc Nh làm chủ sở hữu, do ông Nh không biết Phạm Ngọc A mượn sử dụng xe để đi mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N trả lại cho ông Nho là phù hợp pháp luật.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều luật, mức hình phạt áp dụng là phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2021.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố bị cáo Mai Trung Kiên Liên Qu phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Mai Trung Kiên Liên Qu 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2021.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1526 gam trong niêm phong số: 1759/KLGĐ-PC09 ngày 31/8/2021.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu sam sung màu xanh của Mai Trung Kiên Liên Qu, 01 điện thoại di động hiệu oppo màu vàng kim của Phạm Ngọc A.

Buộc bị cáo Qu, bị cáo A giao nộp số tiền 200.000đồng dùng để mua ma túy sung ngân sách Nhà nước.

(Vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Đ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/01/2022; tình trạng vật chứng: Gói niêm phong còn nguyên dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, vật chứng khác không xác định được giá trị sử dụng và giấy nộp tiền ngày 14/02/2022 tại Kho bạc Nhà nước Nhơn Trạch).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Ngọc A, Mai Trung Kiên Liên Qu mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về