Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 40/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk Glong, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 39/2021/HS-ST ngày 16 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Ma Văn V, sinh năm 1979 tại tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Thôn 8, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 05/12; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Mạc Văn T (đã chết) và bà Ma Thị K; có vợ là H Thị Tvà 01 con; tiền án: Tại bản án hình sự phúc thẩm số: 74/2017/HSPT ngày 09-3-2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-9-2021 - Có mặt.

2. Sùng A S, sinh năm 1985 tại tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: H’Mông; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Sùng Vảng D và bà Hờ Thị V (đều đã chết); có vợ là Hờ Thị D và 07 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-9-2021 - Có mặt.

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn N; địa chỉ: Bon R, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

- Ông Trần Văn H; địa chỉ: Thôn P, xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Nông– Vắng mặt.

- Ông Trần Văn H; địa chỉ: Thôn 12, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông– Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ma Văn V và Sùng A S là bạn bè với nhau và đều nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 16-9-2021 S gọi điện thoại cho V hỏi có ma túy không thì V trả lời không có. S rủ V đi mua ma túy của H (không xác định được nhân thân, lai lịch) ở xã T, huyện Đ thì V đồng ý, S không có tiền nên nói với V “Em không có tiền anh lấy đi rồi sẽ góp trả sau”. S gọi điện thoại cho P (không xác định được nhân thân, lai lịch, là bạn quen biết) rồi hẹn gặp nhau ở ngã ba cổng chào thôn 8, xã Đ để cùng đi mua ma túy. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47N4 – 5847 chở S, P chở thêm 01 người đàn ông (không xác định được nhân thân thân, lai lịch) cùng đi đến xã T để mua ma túy. Trước khi đi V gọi điện thoại cho H hỏi mua 2.000.000 đồng heroine, thì H đồng ý.

Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến khu vực thôn 7, xã T, V đưa cho S số tiền 2.000.000 đồng, P đưa cho S số tiền 4.000.000 đồng. S cầm tiền đi gặp H và mua 6.000.000 ma túy loại Heroine. H đưa cho S một gói nilon bên trong có một gói giấy và nói “Bên trong có 12 con” tức là 12 gói Heroine. Sau đó, S quay lại chỗ V và P đang đứng chờ. V mở túi nilon ra thấy bên trong có 12 gói giấy màu vàng chứa Heroine, V cầm lấy 04 gói và đưa cho P 08 gói Heroine. V lấy Heroine ra sử dụng, P cũng lấy ra rồi cùng với S và người đàn ông đi chung sử dụng sau đó P cùng người đàn ông đi đâu không rõ. Lúc này, Trần Văn H gọi điện thoại cho V hỏi mua Heroine thì V đồng ý và nói cho S biết việc H hỏi mua 02 gói Heroine. Trên đường về, V và S dừng xe ở khu vực vắng người để chia Heroine ra thành 29 gói nhỏ để bán lại kiếm lời, còn một phần nhỏ dư ra V gói lại cất riêng mang về sử dụng.

Khoảng 14 giờ cùng ngày, V và S về đến xã Đ, S đi vào quán gần ngã ba cổng chào thôn 8 ăn phở, V quay lại khu vực cổng chào đợi H để bán Heroine. Lúc này, H cùng Nguyễn Văn N đến, V và N đi vào đoạn đường đất cách ngã ba khoảng 100m, V đưa cho N 02 gói Heroine, N đưa cho V số tiền 395.000 đồng (sau này V trả tiền ăn phở hết 25.000 đồng). Sau đó H và N mang Heroine đến khu vực vườn trồng cây keo chia nhau sử dụng hết.

Sau khi bán Heroine cho H và N, V quay lại quán phở nói với S đã bán được 02 gói Heroine. S nói với V đưa cho S 02 gói Heroine để ai hỏi mua thì bán. Sau đó S điều khiển xe mô tô đi tìm người để bán 02 gói Heroine còn V ở lại để bán Heroine cho một người đàn ông đã gọi điện thoại hẹn trước đó. Khoảng 10 phút sau, một người đàn ông V từng gặp tại xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Nông (không rõ nhân thân lai lịch) đến gặp và mua nợ của V 100.000 đồng Heroine. Sau khi sử dụng Heroine xong, H tiếp tục gọi điện thoại cho V hỏi mua thêm 02 gói Heroine, V hẹn H đến khu vực xưởng gỗ bỏ hoang tại thôn Q, xã Q. Tại đây, V đã bán cho H 02 gói Heroine với số tiền 300.000 đồng nhưng H không có tiền nên hẹn ngày hôm sau trả, H chia cho N 01 gói Heroine rồi đi về.

V đi vào phòng thứ hai trên tầng hai của căn nhà xưởng rồi lấy trong túi quần ra 05 gói Heroine gói lại bỏ vào trong hộp nhãn hiệu “DẦU PHẬT LINH TRƯỜNG SƠN” rồi cất trong túi quần bên phải của mình, 17 gói Heroine còn lại bỏ vào trong bao thuốc lá nhãn hiệu “SEVEN DIAMONDS” rồi cất giấu ở góc phòng. S đi tìm người để bán Heroine nhưng không được nên quay lại xưởng gỗ bỏ hoang và đưa lại cho V 02 gói Heroine, V bỏ chung cùng 17 gói Heroine rồi giấu ở góc phòng và phủ rác lên trên, V nói với S “anh cất ma túy đây nhé” mục đích để có người hỏi mua thì sẽ bán lấy tiền. Sau đó V lấy số Heroine còn dư cùng S sử dụng hết. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, V và S bị lực lượng Công an huyện Đắk Glong bắt quả tang thu giữ 05 gói Heroine trên người V và V tự nguyện giao nộp 19 gói Heroine cất giấu trong bao thuốc lá để ở góc phòng.

Tại bản giám định số 134/KLMT-PC09 ngày 21/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Đ, kết luận:

- Chất rắn màu trắng đựng trong 05 gói giấy có ký hiệu từ I1 đến I5 được niêm phong trong bì thư ký hiệu M1 đều là ma túy, có tổng khối lượng là 0,0515 gam, là Heroine; hoàn lại đối tượng sau giám định là 0,0282 gam;

- Chất rắn màu trắng đựng trong 19 gói giấy có ký hiệu từ T1 đến T19 được niêm phong trong bì thư ký hiệu M2 đều là ma túy, có tổng khối lượng là 0,1610 gam, là Heroine; hoàn lại đối tượng sau giám định là 0,1029 gam.

Cáo trạng số: 45/CT-VKS ngày 15-11-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Ma Văn V, Sùng A S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, các bị cáo Ma Văn V, Sùng A S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong sau khi trình bày luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ma Văn V, Sùng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ma Văn V từ 08 năm đến 09 năm tù.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Sùng A S từ 07 năm đến 08 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 03 chiếc điện thoại di động và số tiền 370.000 đồng; đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,1311 gam Heroine được niêm phong trong 02 bì thư ký hiệu 134/PC09 ghi mẫu M1, M2 hoàn trả sau giám định; 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 hộp giấy có dòng chữ DẦU PHẬT LINH TRƯỜNG SƠN, 01 tờ giấy hình chữ nhật, ghi nội dung hướng dẫn sử dụng dầu phật linh Trường Sơn, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu SEVEN DIAMONDS. Chấp nhận ngày 08/11/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong ra quyết định xử lý vật chứng số 25 trả lại số tiền 1.600.000 đồng cho chị Hoàng Thị T.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát 47N4–5847 (xe do chị Hoàng Thị T là vợ của V mượn của anh Hoàng Văn V) do anh Hoàng Văn V mua lại từ một tiệm sửa chữa xe máy cũ (không nhớ tên) ở xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk nhưng anh V không cung cấp được giấy tờ mua bán xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong tiến hành xác minh chủ sở hữu xe nhưng không có kết quả nên tách ra tiếp tục xác minh xử lý nên không đề cập giải quyết.

Bị cáo Ma Văn V, Sùng A S không tranh luận chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét thấy mặc dù các bị cáo bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy nhiên số ma túy 0,0515 gam thu giữ trong người bị cáo V bị cáo khai mục đích là để mang đi bán để kiếm lời, đồng thời số ma túy này cũng không đủ định lượng để cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy; đối với 19 gói Heroine có tổng khối lượng 0,1610 gam Ma Văn V tự nguyện giao nộp khi cơ quan Công an bắt quả tang, bị cáo thừa nhận mục đích các bị cáo mua ma túy, chia nhỏ và cất giấu số ma túy trên ra là để bán kiếm lời và khi lên cơn nghiện thì sẽ sử dụng; các bị cáo cũng không phân định được cụ thể số ma túy nào là để bán và số ma túy nào là để sử dụng nên không có đủ cơ sở để xem xét về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với các bị cáo.

[3]. Xét thấy lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 16-9-2021, tại thôn 8, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Ma Văn V bán 02 gói Heroine cho Trần Văn H và Nguyễn Văn N được số tiền 395.000 đồng, bán nợ 01 gói Heroine cho một người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) với số tiền 100.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, tại thôn Q, xã Q, V tiếp tục bán nợ cho H và N 02 gói Heroine với số tiền 300.000 đồng để sử dụng.

Đối với bị cáo S tuy không trực tiếp bán ma túy nhưng bị cáo đã giúp sức cho bị cáo V trong việc đi mua ma túy và chia nhỏ số ma túy để bán cho các con nghiện, đồng thời bị cáo cũng mang ma túy đi bán nhưng chưa thực hiện được thì bị bắt. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Glong truy tố các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

[3]. Xét tính chất vụ án do hành vi của các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3]. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, tuy nhiên tính chất, mức độ và vai trò là khác nhau nên cần phân hóa để quyết định hình phạt cho phù hợp. Đối với bị cáo Ma Văn V có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại phạm tội; bị cáo là người có vai trò tích cực, các lần bán ma túy đều do bị cáo thực hiện, do đó cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc hơn so với bị cáo S là phù hợp.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ma Văn V bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ma Văn V, Sùng A S sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo là người dân thuộc thiểu số, cư trú nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tịch sung vào Ngân sách Nhà nước 03 chiếc điện thoại di động là công cụ, phương tiện phạm tội và số tiền 370.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có; tịch thu tiêu hủy 0,1311 gam Heroine được niêm phong trong 02 bì thư ký hiệu 134/PC09 ghi mẫu M1, M2 hoàn trả sau giám định; 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 hộp giấy có dòng chữ DẦU PHẬT LINH TRƯỜNG SƠN, 01 tờ giấy hình chữ nhật, ghi nội dung hướng dẫn sử dụng dầu phật linh Trường Sơn, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu SEVEN DIAMONDS (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 12-5-2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong với Chi cục Thi hành án dân sự sự huyện Đắk Glong) Chấp nhận ngày 08/11/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong ra quyết định xử lý vật chứng số 25 trả lại số tiền 1.600.000 đồng cho chị Hoàng Thị T.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 47N4–5847 (xe do chị Hoàng Thị T là vợ của V mượn của anh Hoàng Văn V) do anh Hoàng Văn V mua lại từ một tiệm sửa chữa xe máy cũ (không nhớ tên) ở xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk nhưng anh V không cung cấp được giấy tờ mua bán xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong tiến hành xác minh chủ sở hữu xe nhưng không có kết quả nên tách ra tiếp tục xác minh xử lý nên không đề cập xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Xét thấy các bị cáo đều có có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không xử phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Ma Văn V, Sùng A S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ma Văn V 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 17-9-2021.

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Sùng A S 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 17-9-2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

Chấp nhận ngày 08/11/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong ra quyết định xử lý vật chứng số 25 trả lại số tiền 1.600.000 đồng cho chị Hoàng Thị T.

Tịch thu tịch sung vào Ngân sách Nhà nước 03 chiếc điện thoại di động và số tiền 370.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 0,1311 gam Heroine được niêm phong trong 02 bì thư ký hiệu 134/PC09 ghi mẫu M1, M2 hoàn trả sau giám định; 01 bơm kim tiêm; 01 hộp giấy có dòng chữ DẦU PHẬT LINH TRƯỜNG SƠN, 01 tờ giấy hình chữ nhật, ghi nội dung hướng dẫn sử dụng dầu phật linh Trường Sơn, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu SEVEN DIAMONDS (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11-11-2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Glong với Chi cục Thi hành án dân sự sự huyện Đ)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Ma Văn V, Sùng A S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 40/2021/HS-ST

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glong - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về