Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 37/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 37/2024/HS-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 02 năm 2024, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2023/TLST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37A/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo thứ nhất:

Họ và tên: Nguyễn Xuân Đ, Giới tính: Nam.

Sinh năm: 1991, tại: Đồng Nai.

Nơi cư trú: C, ấp B, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa.

Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ học vấn: Lớp 3/12. Họ tên cha: Nguyễn Quốc K; sinh năm: 1964.

Họ tên mẹ: Trần Thị H; sinh năm: 1965.

Hiện đang sinh sống tại ấp B, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có 04 anh em.

Họ và tên vợ: Vũ Ngọc L, sinh năm: 1993.

Bị cáo có 03 người con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2022.

Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Thống Nhất từ ngày 27/8/2023 đến nay.

2. Bị cáo thứ hai:

Họ và tên: Trần Thế H, Giới tính: Nam.

Sinh năm: 1990; tại: Đồng Nai.

Nơi cư trú: Đội B, ấp V, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ học vấn: Lớp 5/12.

Họ tên cha: Trần Xuân H; sinh năm: 1960.

Họ tên mẹ: Đỗ Thị Đ; sinh năm: 1958.

Hiện đang sinh sống tại ấp V, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Bị cáo là con út trong gia đình có 03 anh em; Chưa có vợ con. Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Thống Nhất từ ngày 27/8/2023 đến nay.

(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Hồng T, sinh năm: 1981. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

* Người làm chứng :

1. Anh Hồ Hoàng P, sinh năm: 2001. (Vắng mặt) Địa chỉ: M, ấp T, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh Phạm Tiến D, sinh năm: 2000. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 35 phút, ngày 27/8/2023, Công an xã G, huyện T nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có đối tượng Trần Thế H, sinh năm 1990, trú tại ấp V, xã G có biểu hiện sử dụng ma túy, qua kiểm tra phát hiện Trần Thế H dương tính với ma túy, Công an xã G kiểm tra trên người và phương tiện thì phát hiện trên xe mô tô 60B7-33793 của H có 01 túi nilon hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng, Trần Thế H khai nhận là ma túy đá của H mua lại của Nguyễn Xuân Đ, Công an xã G lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với Trần Thế H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng, vụ việc được chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất xử lý theo quy định.

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 27/8/2023 Trần Thế H điều khiển xe môtô 60B7-X đi đến nhà của Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1991, trú tại ấp Bắc Sơn, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất thỏa thuận mua của Đài 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng, H cất dấu túi ma túy vào cốp xe môtô 60B7-X rồi đến nhà người bạn tên Hồ Hoàng P, sinh năm 2000, trú tại xã Gia Kiệm để đi chơi bi da. Đến 15 giờ 20 phút cùng ngày thị bị Công an xã Gia Kiệm kiểm tra phát hiện trong cốp xe môtô 60B7-X của Trần Thế H 01 túi ma túy nên bị lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Qua đấu tranh nhanh Trần Thế H khai nhận ma túy mua của Nguyễn Xuân Đ ở xã Quang Trung, huyện Thống Nhất. Đến 8 giờ ngày 28/8/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất tiến hành bắt khẩn cấp đối với Nguyễn Xuân Đ về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh, khám xét tại nhà ở của Nguyễn Xuân Đ Cơ quan điều tra thu giữ 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy. Nguyễn Xuân Đ khai nhận số ma túy bán cho Trần Thế H là do Nguyễn Xuân Đ mua của đối tượng tên H ở khu vực xã Cây Gáo, huyện Trảng Bom (bản thân Nguyễn Xuân Đ không biết rõ họ tên, nơi cư trú của H).

Căn cứ Kết luận giám định số 1924/KL-KTHS ngày 01/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là Ma túy, có khối lượng 0,2348 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Trần Thế H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án gồm:

- 0,1758 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định không được phép sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu Vivo màu xanh của Nguyễn Xuân Đ, điện thoại liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã thu giữ, cần tịch thu sung công.

- 01 điện thoại di động hiệu Zono màu đen của Trần Thế H, không liên quan đến vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất trả lại cho bị cáo Hiển theo quy định.

- 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy của Nguyễn Xuân Đ cần tịch thu tiêu hủy.

- Xe mô tô nhãn hiệu 60B7-X đứng tên chủ sở hữu Trần Thị Ngọc L, là tài sản của anh Phạm Hồng T, sinh năm 1981, trú tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất mua lại nhưng chưa sang tên, anh T cho Trần Thế H mượn xe đi làm nhưng không biết Trần Thế H sử dụng vào mục đích phạm tội, xe có đầy đủ giấy tờ hợp pháp Cơ quan điều tra trả lại cho anh T theo quy định.

- Tịch thu sung công số tiền 200.000 đồng của bị cáo Nguyễn Xuân Đ thu lợi bất chính thông qua việc mua bán trái phép chất ma túy cho Trần Thế H.

Tại cáo trạng số 143/CT-VKS.TN ngày 28/11/2023; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố Nguyễn Xuân Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và truy tố Trần Thế H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất giữ nguyên quan điểm, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Thế H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị hội đồng xét xử tuyên tịch thu 0,1758 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định không được phép sử dụng để tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu Vivo màu xanh của Nguyễn Xuân Đ, điện thoại liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã thu giữ, cần tịch thu sung công.

- 01 điện thoại di động hiệu Zono màu đen của Trần Thế H, không liên quan đến vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất trả lại cho bị cáo H theo quy định.

- 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy của Nguyễn Xuân Đ cần tịch thu tiêu hủy.

- Xe mô tô nhãn hiệu 60B7-X đứng tên chủ sở hữu Trần Thị Ngọc L, là tài sản của anh Phạm Hồng T, sinh năm 1981, trú tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất mua lại nhưng chưa sang tên, anh T cho Trần Thế H mượn xe đi làm nhưng không biết Trần Thế H sử dụng vào mục đích phạm tội, xe có đầy đủ giấy tờ hợp pháp Cơ quan điều tra trả lại cho anh T theo quy định.

- Tịch thu sung công số tiền 200.000 đồng của bị cáo Nguyễn Xuân Đ thu lợi bất chính thông qua việc mua bán trái phép chất ma túy cho Trần Thế H.

* Lời nói sau cùng của bị cáo Đ và bị cáo H: Các bị cáo biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để có điều kiện sớm đoàn tụ gia đình và chăm sóc con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Trần Thế H khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với quá trình điều tra, phù hợp với hành vi bị truy tố tại cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án thể hiện như sau:

Vào lúc 15 giờ 35 ngày 27/8/2023, Công an xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất phát hiện và bắt quả tang đối với Trần Thế H về hành vi tàng trữ trái phép 0,2348 gam ma túy loại Methamphetamine tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất.

Số ma túy nêu trên có nguồn gốc H mua của Nguyễn Xuân Đ, qua làm việc Nguyễn Xuân Đ khai nhận ma túy Hiển tàng trữ là do Đ bán cho H với giá là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Ngay sau đó, Nguyễn Xuân Đ và Phạm Thế H đã bị bắt giữ.

Tại phiên tòa bị cáo H khai nhận số ma túy H tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng, nguồn gốc ma túy là do H mua của Nguyễn Xuân Đ.

Qua đối chất giữa H và Đ, được Đ thừa nhận số ma túy H có được là do Đ bán cho H với số tiền là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng), lời khai của H và Đ là trùng khớp.

Căn cứ Kết luận giám định số 1924/KL-KTHS ngày 01/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là Ma túy, có khối lượng 0,2348 gam, loại Methamphetamine.

Do đó cáo trạng Viện kiểm sát truy tố Nguyễn Xuân Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và truy tố Trần Thế H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luậ t.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là lỗi cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, việc mua bán, tàng trữ trái phép các chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm và xử lý nghiêm. Các bị cáo là người sử dụng ma túy, biết được tác hại của việc sử dụng ma túy nhưng còn mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy cho nên việc đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần có mức án nghiêm, tương xứng với hành vi của các bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Xét hành vi của các bị cáo bị truy tố là độc lập không có đồng phạm nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà mình đã thực hiện.

[4] Xét nhân thân của các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Trần Thế H: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đ và bị cáo H: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt khi lượng hình.

[5] Về vật chứng:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu 0,1758 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định để tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu Vivo màu xanh của bị cáo Nguyễn Xuân Đ, điện thoại liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy Cơ quan điều tra đã thu giữ, cần tịch thu sung công.

- 01 điện thoại di động hiệu Zono màu đen của bị cáo Trần Thế H, không liên quan đến vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thống Nhất trả lại cho bị cáo H theo quy định.

- 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy của Nguyễn Xuân Đ cần tịch thu tiêu hủy.

- Xe mô tô nhãn hiệu 60B7-X đứng tên chủ sở hữu Trần Thị Ngọc L, là tài sản của anh Phạm Hồng T, sinh năm 1981, trú tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất mua lại nhưng chưa sang tên, anh T cho Trần Thế H mượn xe đi làm nhưng không biết Trần Thế H sử dụng vào mục đích phạm tội, xe có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, Cơ quan điều tra trả lại cho anh T theo quy định.

- Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Đ phải nộp lại số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) thu lợi bất chính từ việc bán ma túy, tịch thu để sung công.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc xác định tội danh, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Trần Thế H phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

1.1 Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân Đ 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2023.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

1.2 Tuyên bố: Bị cáo Trần Thế H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Thế H 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2023.

2. Về biện pháp tư pháp:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu 0,1758 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định để tiêu hủy.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại hiệu Vivo màu xanh của Nguyễn Xuân Đ.

- Tịch thu 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy của Nguyễn Xuân Đ để tiêu hủy. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai) - Buộc bị cáo Nguyễn Xuân Đ phải nộp lại số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) thu lợi bất chính từ việc bán ma túy để sung công.

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Trần Thế H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Trần Thế H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 37/2024/HS-ST

Số hiệu:37/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về