Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 360/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 360/2022/HS-ST VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27-12 – 2022 về trái phép chất ma túy Ngày 27/12/2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 352/2022/TLST-HS ngày 25/11/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 371/2021/QĐXXST-HS ngày 15/12/2021 đối với các bị cáo:

1./ Họ và tên: Nguyễn Duy B. Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 17 tháng 02 năm 2001; tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi đăng ký HKTT: Số 181/3 Q, phường T, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Số 38/5 H, phường T, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Duy V, sinh năm 1975; Con bà Đỗ Thị Thanh T1, sinh năm 1976; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk từ ngày 03/8/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2./ Họ và tên: Trần Thanh T2. Tên gọi khác: U; Sinh ngày 08 tháng 9 năm 1993; tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn 9, xã T3, huyện B2, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Số 486 T4, phường T5, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông T6, sinh năm 1957; Con bà Hứa Thị Bích N (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: 03 Tiền án:

Ngày 29/9/2011, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 275/2011/HSST. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Ngày 14/8/2013, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 224/2013/HSST ngày 14/8/2013. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Ngày 12/11/2015, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 349/2015/HSST. Chấp hành án tại trại giam Đắk Tân. Tháng 5/2022, chấp hành xong án phạt tù. Bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk từ ngày 03/8/2022 cho đến nay.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Dương B2, sinh năm 1996 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn P, xã Q1, huyện Q2, tỉnh Quảng Nam.

- Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Duy C, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 81/4 đường Y, phường T7, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Nguyễn Quốc H1, sinh năm 1976 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 41 đường Đ, phường T7, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk.

3. Ông Võ Xuân B3, sinh năm 1982 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 11/34/2B A, phường T8, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk.

4. Ông Trương Quốc B4, sinh năm 1972 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 54 đường B5, phường T8, thành phố B1, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh T2 (thường gọi là U) là đối tượng nghiện ma túy loại Cần sa, có 03 tiền án chưa được xóa án tích và có mối quan hệ quen biết với Nguyễn Duy B. Quá trình sử dụng ma túy, T2 biết nam thanh niên tên B6 (không rõ lai lịch) là người bán ma túy Cần sa. Do không có việc làm, muốn có tiền tiêu xài nên T2 đã nảy sinh ý định bán ma túy loại Cần sa để kiếm lời, thỏa thuận với Bảo có ai mua ma túy thì T2 đưa Bảo đi giao, tiền thu lợi cùng nhau chi tiêu ăn uống hàng ngày thì B đồng ý. Khoảng hơn 15 giờ ngày 03/8/2022, có 01 người nam giới (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0825.X.345 gọi đến số 0818.X.594 gắn trên chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Xs max của Bảo hỏi mua 200.000đ ma túy Cần sa thì B báo cho T2 biết. Sau đó T2 sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung kèm sim 0818.X.081 gọi đến số 0916.X.879 của B6 mua 01 lạng ma túy Cần sa với giá 3.500.000đ, hẹn giao ma túy cho T2 tại khu vực đường H, phường T, thành phố B1. T2 một mình đón xe Grap (không rõ tên, biển số) đến gặp B6. Mua được ma túy, T1 phân ra một gói nhỏ rồi nói B đến khu vực đường T4, phường T5, thành phố B1 lấy đi giao cho người mua, số ma túy còn lại T1 cất giấu trong người để tiếp tục bán. Khi B vừa đến trước địa chỉ số 02 H2, phường T8, thành phố B1 thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa thảo mộc khô màu xanh đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Duy B, khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày 03/8/2022, trước địa chỉ số 84 Y, phường T7, thành phố B1, lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố bắt quả tang Trần Thanh T2, thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa thảo mộc khô màu xanh đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Tại Kết luận giám định số số 1275/KL-KTHS ngày 21/9/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng đã kết luận:

Mẫu thảo mộc khô màu xanh gửi giám định là ma túy, loại Cần sa; khối lượng mẫu là 2,34 gam (Ma túy thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Duy B).

Mẫu thảo mộc khô màu xanh gửi giám định là ma túy, loại Cần sa; khối lượng mẫu là 14,90 gam (Ma túy thu giữ khi bắt quả tang Trần Thanh T2).

Tại Cáo trạng số 352/CT-VKS ngày 23/11/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Duy B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS, truy tố bị cáo Trần Thanh T2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 251 BLHS.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy B, Trần Thanh T2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy B từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

- Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thanh T2 từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù.

- Các biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự;

Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy ma túy loại Cần sa còn lại sau giám định.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs max màu đen, số Imei: 3572610951797, kèm 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu bạc, số Imei: 35877704252193.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu trắng xanh, BKS 92G1 – X.64 mà Bảo sử dụng làm phương tiện đi bán ma túy. Quá trình điều tra đã xác định, chiếc xe này là của anh Trần Dương B2 – sinh năm 1996, HKTT: Thôn P, xã Q1, huyện Q2, tỉnh Quảng Nam (bạn của Bảo). Quá trình điều tra đã xác định, anh Trần Dương B2 không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của B. Vì vậy, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho anh B2 nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Các vấn đề khác đề nghị HĐXX chấp nhận như nội dung tại bản Cáo trạng. Các bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận nội dung gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Duy B, Trần Thanh T2 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 03/8/2022, trước địa chỉ số 02 H2, phường T8, thành phố B1, lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang Nguyễn Duy B có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa ma túy loại Cần sa, khối lượng 2,34 gam. Bảo khai nhận là ma túy của Trần Thanh T2 đưa đi bán để cùng hưởng lợi. Căn cứ lời khai của Nguyễn Duy B, khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày 03/8/2022, trước địa chỉ số 84 Y, phường T7, thành phố Buôn Ma Thuột, lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang Trần Thanh T2 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa ma túy loại Cần sa, khối lượng 14,90 gam. Thảo khai nhận là một phần ma túy còn sót lại trước đó đã đưa cho Bảo, một mình cất giấu để bán kiếm lời.

Ngày 29/9/2011, Bị cáo Trần Thanh T2 bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 275/2011/HSST. Bị cáo chưa được xóa án tích; Ngày 14/8/2013, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chưa được xóa án tích; Ngày 12/11/2015, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 349/2015/HSST. Chấp hành án tại trại giam Đắk Tân. Tháng 5/2022, chấp hành xong án phạt tù. Bị cáo chưa được xóa án tích. Vì vậy, trong vụ án này bị cáo Trần Thanh T2 phạm tội với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

1. “ Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” 2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) .....;

..........;

q) Tái phạm nguy hiểm Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Duy B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Trần Thanh T2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.

Các bị cáo có đủ năng lực hành vi dân sự để nhận thức được Cần sa là chất ma túy gây nghiện, làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về hình sự tại địa phương, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và vai trò khi thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo.

[3] Về vai trò: Trong vụ án này có hai bị cáo tham gia, xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo là khác nhau nên cần phân hóa tội phạm trên cơ sở đánh giá, phân tích để định cho từng bị cáo một mức hình phạt phù hợp.

Bị cáo T2 là người khởi xướng, rủ rê bị cáo B vào con đường phạm tội; trực tiếp liên hệ đối tượng tên B6 (Không rõ lai lịch) để mua ma túy và hưởng lợi tiền từ việc bán ma túy, bị cáo B là người giúp sức tìm đối tượng mua ma túy để được hưởng lợi về ma túy. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo T2 cao hơn bị cáo B.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Trần Thanh T2 có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên. HĐXX xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Đối với 1,85 gam ma túy loại Cần sa; 12,69 gam ma túy loại Cần sa và toàn bộ bao gói còn lại, được niêm phong trong gói số 1275/KL-KTHS của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs max màu đen, số Imei: 3572610951797, kèm 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu bạc, số Imei: 35877704252193 là tài sản các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu trắng xanh, BKS 92G1 – X.64 mà B sử dụng làm phương tiện đi bán ma túy. Quá trình điều tra đã xác định, chiếc xe này là của anh Trần Dương B2 – sinh năm 1996, HKTT: Thôn P, xã Q1, huyện Q2, tỉnh Quảng Nam (bạn của B). Quá trình điều tra đã xác định, anh Trần Dương B2 không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của B. Vì vậy, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho anh B2 nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

[7] Các vấn đề khác:

Đối với nguồn gốc ma túy, bị cáo Trần Thanh T2 khai nhận mua của một người tên B6 (không rõ lai lịch) có số điện thoại 0916.X.879 và số điện thoại 0825.X.345 của người hỏi mua ma túy từ Bảo. Cơ quan điều tra chưa xác định lai lịch của các đối tượng và có Công văn yêu cầu nhà mạng cung cấp thông tin thuê bao nhưng đến nay vẫn chưa nhận được phúc đáp. Vì vậy, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án, tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[8] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Duy B, Trần Thanh T2 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy B, Trần Thanh T2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy B: 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/8/2022.

Căn cứ điểm q, khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Trần Thanh T2: 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/8/2022.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu, tiêu hủy 1,85 gam ma túy loại Cần sa; 12,69 gam ma túy loại Cần sa và toàn bộ bao gói còn lại, được niêm phong trong gói số 1275/KL-KTHS của Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs max màu đen, số Imei: 3572610951797, kèm 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu bạc, số Imei: 35877704252193.

Chấp nhận Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu trắng xanh, BKS 92G1 – X.64 cho anh Trần Dương B2 – sinh năm 1996, HKTT: Thôn P, xã Q1, huyện Q2, tỉnh Quảng Nam là chủ sở hữu hợp pháp.

(Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/12/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột)

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Các bị cáo Nguyễn Duy B, Trần Thanh T2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 360/2022/HS-ST

Số hiệu:360/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về