Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG- THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2022/HSST ngày 27/01/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/QĐXX -ST ngày 10/02/2022, đối với bị cáo:

Lò Văn T- Sinh năm 1993;Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: bản C, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa:8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Lò Văn L( đã chết); Họ tên mẹ: Lò Thị L; Có vợ là Cà Thị Q; có 02 con, con lớn sinh 2012, con nhỏ sinh 2015;Tiền án-Tiền sự: Không;

Bắt quả tang ngày 16/12/2021; Bị tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến 29/12/2021. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; ( Có mặt tại phiên tòa)

Người bào chữa cho bị cáo: bà Nguyễn Thị Bích N- Trợ giúp viên pháp lý, chi nhánh số 2, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội.

( Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 16/12/2021, Lò Văn T đang đi lang thang tại khu vực vườn hoa, đầu phố T, phường P, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội thì có một người đàn ông đến gặp T, nhờ mua hộ 500.000đ( Năm trăm nghìn đồng) ma túy loại Heroin. Người này hứa trả công cho T 100.000đ( Một trăm nghìn đồng). T đồng ý mua hộ ma túy và cầm của người đàn ông số tiền 600.000đ( sáu trăm nghìn đồng). Hai bên hẹn nhau địa điểm để trao ma túy tại số 10 phố T. Sau khi cầm tiền, T đi đến khu vực vỉa hè trước cổng Bệnh viện Trung ương quân đội 108 để mua ma túy. Tại đây, T gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 05 gói ma túy loại heroin, với giá 500.000đ. Mua được ma túy, T cầm trong lòng bàn tay phải và đi đến số 10 T, phường P, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để giao ma túy cho người đàn ông nhờ mua ma túy. Khi tới nơi, Thỏa bị tổ công tác Công an phường P đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra hành chính. T đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 05 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. T khai là ma túy loại Heroin. Tổ công tác thu giữ số tiền 100.000đ trong người T và lập biên bản, niêm phong tang vật, đưa T về trụ sở để điều tra làm rõ.

Tại Bản kết luận giám định số 8956/KLGĐ-PC09 ngày 23/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong 05 gói giấy mầu trắng đều là ma túy loại Heroin, tổng khối lượng 0,125gam.

Cơ quan điều tra đã dẫn giải T đến địa điểm mua, bán ma túy, nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy và đối tượng nhờ T mua ma túy, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với số tiền 100.000đ: T khai là tiền công khi đi mua hộ ma túy.

Tại Bản cáo trạng số 13/CT/VKS-HBT ngày 24/01/2022, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Lò Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra, xác định bị cáo Lò Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Lò Văn T từ 24 đến 28 tháng tù;

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu ma túy thu giữ của T.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 100.000đ do T phạm tội mà có.

Về án phí hình sự sơ thẩm: do bị cáo là nguời dân tộc thiểu số, ở nơi đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo.

Người bào chữa trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo: Xác định bị cáo bị truy tố xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo là người dân tộc, hiểu biết kém nên dẫn đến phạm tội; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo là nguời dân tộc thiểu số, ở nơi đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo Lò Văn T công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của bị cáo:

Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ các Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội; Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: ngày 16/12/2021, bị cáo Lò Văn T đã có hành vi mua 0,125gam ma túy loại Heroin nhằm mục đích bán cho người nghiện ma túy kiếm lời. Khi bị cáo đang mang ma túy đi bán thì bị bắt quả tang, thu giữ tang vật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhà nước đang dùng mọi biên pháp để ngăn chặn tệ nạn ma túy. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi mua ma túy để bán lại cho những người nghiện ma túy khác, với mục đích kiếm lời. Hành vi của các bị cáo làm gia tăng những người nghiện ma túy, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xét thấy nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng tội phạm mua bán trái phép chất ma túy là nghiêm trọng, có tính nguy hiểm cho xã hội cao. Vì vậy cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tù nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm về ma túy.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]Xử lý vật chứng:

[5.1] 0,125gam ma túy loại Heroin thu giữ của Lò Văn T là chất gây nghiện bị cấm lưu hành. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy.

[5.2] Đối với số tiền 100.000đ thu giữ của T: đây là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo là nguời dân tộc thiểu số, sinh sống ở nơi đặc biệt khó khăn, Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội : miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14:

Xử phạt Lò Văn T 24(Hai mươi bốn) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án( Được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến 29/12/2021).

[2] Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo.

[3]Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,125gam ma túy loại Heroin chứa trong 01 bì giấy đã niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Lò Văn T);

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 24/01/2022).

Tịch thu sung công số tiền 100.000đ(Một trăm nghìn đồng), theo Giấy nộp tiền ngày 25/01/2022.

[4]Về án phí: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về