Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 32/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 8 năm 2021, tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2021/TLST-HS, ngày 16 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 7 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Đình H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 01/11/1991, tại xã N, Cẩm Thủy, Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn S, xã N, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Đình Ái, Sinh năm: 1961; Con bà: Quách Thị C, Sinh năm: 1965; Vợ: Bùi Thị D, Sinh năm: 1986; có 01 con, sinh năm: 2019.

Tiền án: 02 tiền án về tội “Cướp giật tài sản”. Tại bản án số 54/2011/HSST, ngày 17/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện C xử phạt bị cáo 5 năm tù về tội Cướp giật tài sản; Bản án số 30/2011/HSST, ngày 31/12/2011 Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 3 năm tù về Tội Cướp giật tài sản, tổng hợp hình phạt của 2 bản án là 8 năm tù.

Tiền sự: Có 1 tiền sự: Tháng 12/2020 bị Công an huyện C xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau. Bị cáo đã nộp phạt xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/4/2021; tạm giam từ ngày 29/4/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

- Nguyễn Khắc Thơm - Trú tại: TDP T, Thị trấn P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa – vắng mặt

- Nguyễn Quốc H; Trú tại: Tổ dân phố D, Thị trấn P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 22/04/2021, Nguyễn Đình H đi từ nhà tại Thôn S, xã N, huyện C, tỉnh Thanh Hóa đến huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa để tìm mua ma túy. H đi đến khu vực đèn xanh, đèn đỏ thuộc thị trấn L, huyện N, tỉnh Thanh Hóa thì gặp một người đàn ông làm nghề xe ôm (Không biết tên tuổi, địa chỉ và biển kiểm soát xe máy). Nguyễn Đình H hỏi người đàn ông đó hỏi mua ma túy đá với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Người đàn ông đó đồng ý và đưa cho Nguyễn Đình H 01 (một) gói ma túy đá. Sau khi mua được ma túy Nguyễn Đình H đi về nhà và đến khu vực nghĩa địa thôn S, xã N, H đã lấy một phần ma túy ra để sử dụng, phần còn lại chia ra làm 02 (hai) túi nhỏ để nhằm mục đích bán kiếm lời. Đến khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 23/4/2021 Nguyễn Đình H bán cho người tên “T” (H không biết tên tuổi cụ thể) người xã T, huyện C, tỉnh Thanh Hóa 01(một) túi ma túy đá với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Số ma túy còn lại H cất giấu trong người. Đến khoảng 16 giờ 30 phút đến 17 giờ 00 phút, ngày 24/4/2021, Nguyễn Đình H điều khiển xe môtô nhãn hiệu ANGEL, màu sơn trắng đen, BKS: 36K8- 5704 đi từ nhà lên thị trấn P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa và có mang theo 01 (một) gói ma túy đá để xem có ai mua thì sẽ bán lại để kiếm lời, đến đoạn đường quốc lộ 217 thuộc địa phận Tổ dân phố N, thị trấn P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa thì bị tổ Công tác của Công an huyện C yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Nguyễn Đình H đã tự nguyện giao nộp 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp). H khai nhận số ma túy này H mang theo để có ai mua thì bán.

Tại Bản kết luận giám định số 1458/PC09 ngày 28/04/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất rắn dạng tinh thể của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,053g (không phẩy không năm ba gam), loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKSCT-MT, ngày 15/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, truy tố bị cáo Nguyễn Đình H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Theo khoản 1 điều 251 BLHS.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Bị cáo khai, bản thân là người nghiện ma túy từ năm 2020, do đó ngày 22/4/2021 bị cáo đi tìm mua túy về mục đích để sử dụng, số còn lại bị cáo chia nhỏ ra thành hai gói để bán kiếm lời.

Người chứng kiến có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; điều 38; điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 136; điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1, điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, của Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình H phạm tội „Mua bán trái phép chất ma túy”. Lên mức hình phạt đối với bị cáo từ 03 đến 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2021.

Về tang vật của vụ án: 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bên trong có chứa chất ma túy loại: Methamphetamine đã qua giám định, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi mua bán ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, tang vật thu được và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào hồi 16 giờ 50 phút ngày 24/4/2021 trên đường Quốc lộ 217, thuộc địa phận tổ dân phố N, thị trấn P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa, bị cáo Nguyễn Đình H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,053g (Không phẩy không năm ba gam) ma túy là Methamphetamine, với mục đích đem đi bán kiếm lời. Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với người đàn ông làm nghề xe ôm đã bán ma túy cho bị cáo. Ngày 01 tháng 7 năm 2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành xác minh theo thông tin và đặc điểm mà Nguyễn Đình H đã khai báo. Quá trình xác minh, chính quyền địa phương cho biết trên địa bàn khu phố D, thị trấn L, huyện N, tỉnh Thanh Hóa không có người có thông tin, đặc điểm như H đã khai báo, do đó không có căn cứ để mở rộng điều tra và xử lý đối tượng.

Đối với người tên Trường bị cáo khai đã mua ma túy của bị cáo vào ngày 23/4/2021. Ngày 27/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành xác minh theo thông tin và đặc điểm mà Nguyễn Đình H đã khai báo. Quá trình xác minh, chính quyền địa phương cho biết trên địa bàn xã T, huyện C, tỉnh Thanh Hóa không có người có thông tin, đặc điểm như H đã khai báo, do đó, không có sở mở rộng điều tra và xử lý đối tượng cũng như truy tố bị cáo về hành vi mua bán ma túy lần này.

[3]. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các nguyên tắc quản lý, sử dụng chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, gieo rắc cái chết trắng cho nhiều gia đình. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Tại bản án số 54/2011/HSST, ngày 17/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện C xử phạt bị cáo 5 năm tù về tội Cướp giật tài sản; Bản án số 30/2011/HSST, ngày 31/12/2011 Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 3 năm tù về Tội Cướp giật tài sản, tổng hợp hình phạt của 2 bản án là 8 năm tù. Do hành vi phạm tội cướp giật tài sản tại huyện N sảy ra trước khi Tòa án nhân dân huyện C xét xử bị cáo và bị cáo chưa bị áp dụng tình tiết tái phạm, nên lần này bị cáo chỉ phải chịu tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 BLHS.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thuộc người dân tộc thiểu số, không có công ăn việc làm, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng của vụ án: 01 (một) Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bên trong có chứa chất ma túy loại: Methamphetamine đã qua giám định, không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy; 01 (một) xe môtô nhãn hiệu ANGEL, biển kiểm soát 36K8-5704; 01 (một) đăng ký môtô, xe máy số: 0186251, mang tên Phạm Xuân Đ; địa chỉ Thôn T, xã V, huyện C, Thanh Hóa. Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã xác minh làm rõ chiếc chiếc xe là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Bùi Thị T, sinh năm 1975, trú tại Thôn C, xã P, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 24/04/2021 Nguyễn Đình H mượn xe máy của chị Bùi Thị T để làm phương tiện đi lại. Việc Nguyễn Đình H mượn xe mô tô đi và mua bán trái phép chất ma túy chị Bùi Thị T không biết và không tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy cùng với Nguyễn Đình H. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chị Bùi Thị T chủ sở hữu hợp pháp là đảm bảo quy định pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; điều 38; điều 47 BLHS; điều 106; điều 136; điều 331; điều 333 BLTTHS; khoản 1, điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, của Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2021.

Về tang vật của vụ án: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì đã được niêm phong, bên trong có chứa số lượng ma túy còn lại sau giám định. (Các tang vật trên hiện đang lưu kho tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C theo Biên bản giao nhận tang vật ngày 16/7/2021) Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 32/2021/HS-ST

Số hiệu:32/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về