TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 308/2021/HS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 09 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 270/2021/TLST-HS, ngày 09 tháng 09 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 288/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 09 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Kiều Hải U - Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1996, tại tỉnh Đắk Lắk.
Nơi cư trú: Số nhà H, đường M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu Đ; Con bà: Đỗ Nhật L. Bị cáo có chồng: Hà Xuân H, sinh năm: 1989 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm: 2014; Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 25/4/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 03 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 101/2019/HSST. Ngày 27/4/2021 chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt ngày 07 tháng 06 năm 2021 – Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Đoàn Thái A – Sinh năm 1997 Trú tại: Số nhà B, đường P, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
2/ Nguyễn Tuấn A – Sinh năm: 1991 Cư trú: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Kiều Hải U là đối tượng nghiện chất ma tuý, loại Methamphetamine (hay còn gọi là ma túy đá) từ năm 2015 đến nay. Chiều ngày 07/06/2021, đối tượng nam giới tên B (chưa xác định nhân thân, lai lịch) sử dụng số thuê bao 0963.074.492 gọi cho Hải U vào điện thoại gắn sim thuê bao 0793.501.659 hỏi mua góc tám ma túy đá. U đồng ý và nói B chờ chút sẽ gọi lại cho B. Sau đó, U dùng điện thoại gọi cho người nam giới tên là Q (chưa xác định nhân thân, lai lịch) sử dụng số thuê bao 0944.353.064 hỏi mua số ma túy trên thì Q báo giá là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) và hẹn đến tại ngã tư đường L và đường H, phường T, thành phố B để giao ma túy. Sau đó, U gọi điện thoại lại cho B nói bán số ma túy này với giá tiền 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) và hẹn giao ma túy tại trạm xăng dầu đường Đ, phường T, thành phố B, rồi U đi đến địa điểm đã hẹn đưa cho Q số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng), Q đưa lại cho U 01 (một) gói nylon chứa ma túy đá. U cất giấu gói ma túy đá trong người rồi đi đến nhà bạn là Đoàn Thái A, trú tại: Số nhà B, đường P, phường E, thành phố B chơi. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, U rủ A đi chơi và đón xe taxi do anh Nguyễn Tuấn A, điều khiển. Khi đi đến trạm xăng dầu đường Đ, U xuống xe, đứng đợi để bán ma túy cho B thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B phát hiện, thu giữ 01 (một) gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong trong bì thư có chữ ký của Nguyễn Kiều Hải U, Nguyễn Văn T, Nguyễn Tuấn A, Đoàn Thái A và đóng dấu tròn của công an phường T, thành phố B theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 645/GĐMT-PC09 ngày 16 tháng 06 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong, gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3326 gam, loại: Methamphetamine.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo đúng như nội dung trên, bị cáo đồng ý với kết luận giám định và không có ý kiến gì.
Tại bản cáo trạng số: 306/CT-VKS-TPBMT ngày 09/09/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thanh phô Buôn Ma Thuột , tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Nguyễn Kiều Hải U về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Kiều Hải U và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Kiều Hải U theo bản cáo trạng số 306/CT-VKS-TPBMT ngày 09/09/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Kiều Hải U từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,3057 gam chất ma tuý, loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 645/GĐMT-PC09 ngày 16/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia, loại trắng đen, gắn sim số 0793.501.659, là tài sản của bị cáo Nguyễn Kiều Hải U dùng vào việc phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07/06/2021, tại trạm xăng dầu đường Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk. Lực lượng cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Kiều Hải U có hành vi cất giấu trái phép 0,3326 gam ma túy, loại Methamphetamine chờ con nghiện đến mua để bán là phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm..
….
[2] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nguy hiểm và gây tác hại xấu nhiều mặt cho xã hội và ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy. Bị cáo nhận thức được rằng các loại dược chất ma túy thuộc quyền quản lý của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự thủ tục nghiêm ngặt, mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Đồng thời bị cáo cũng biết được rằng chất ma túy là loại chất gây nghiện nặng làm hủy hoại đến sức khỏe của con người và cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội. Chỉ vì tham lam tư lợi nên bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do đó đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và cần buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, nhằm phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này trong tình hình xã hội hiện nay.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tình tiết giảm nhẹ, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.
Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai nhận mua của một người tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường ngã tư đường L và đường H, phường T, thành phố B. Đối tượng nam giới tên B sử dụng số thuê bao 0963.074.492 là người hỏi mua ma túy của U. Cơ quan điều tra Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng trên nên tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.
Đối với anh Đoàn Thái A (bạn của bị cáo) và Nguyễn Tuấn A (người lái xe Taxi). Quá trình điều tra xác định anh Đoàn Thái A và anh Tuấn A không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo U. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý anh A và anh Tuấn A là phù hợp.
[4] Về vật chứng: Đối với 0,3057 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 645/GĐMT-PC09 ngày 16/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia, loại trắng đen, gắn sim số 0793.501.659, bị cáo Nguyễn Kiều Hải U sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kiều Hải U phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Kiều Hải U 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 07 tháng 06 năm 2021.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,3057 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 645/GĐMT-PC09 ngày 16/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia, loại trắng đen, gắn sim số 0793.501.659 của bị cáo Nguyễn Kiều Hải U.
(Vật chứng có đặc điểm, số lượng như biên giao nhận vật chứng ngày 14/09/2021 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Kiều Hải U phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 308/2021/HS-ST
Số hiệu: | 308/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về