Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2023 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2023/TLST - HS, ngày 17 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST - HS, ngày 08/6/2023 đối với bị cáo:

Dương Văn H (Tên gọi khác: Không có); Sinh ngày 30 tháng 12 năm 1988 tại huyện B, tỉnh B; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 8/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn H1 (đã chết); Con bà Nông Thị H2 sinh năm: 1955; Vợ, con: không có; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Bản án số 02/2017/HSST, ngày 01/11/2017 Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh B xử phạt bị cáo Dương Văn H 20 (hai mươi) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 12/01/2019 Dương Văn H chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B từ ngày 23/12/2022 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào cha cho bị cáo: Ông Hoàng Đình T - Luật sư Văn Phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nông Văn B, sinh năm 1976; trú tại: Thôn K, xã N, huyện P, tỉnh B. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Triệu Văn T1, sinh năm 1967; trủ tại: Thôn K, xã N, huyện P, tỉnh B. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 23/12/2022, tại khu vực thôn N, xã T, huyện B, tỉnh B, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh bắt người phạm tội quả tang đối với Dương Văn H, sinh năm 1988, nơi thường trú tại địa chỉ trên. Thu giữ trong túi quần dài phía trước bên trái 01 (một) ví giả da màu đen, trong ví có 01 (một) gói nhỏ gói bằng túi đựng xi lanh bên trong có 04 (bốn) viên nén màu hồng. Hiệu thừa nhận 04 (bốn) viên nén màu hồng là ma túy Hiệu tàng trữ để sử dụng được niêm phong vào hộp ký hiệu Q Ngoài ra tạm giữ 02 (hai) điện thoại di động, số tiền 4.700.000 VNĐ (bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng), 01 (một) căn cước công dân mang tên Dương Văn H và 01 (một) ví giả da màu đen.

Cùng khoảng thời gian trên tại khu vực bãi ngô sát nhà của Dương Văn H thuộc thôn N, xã T, huyện B, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Nông Văn B, sinh năm: 1976 trú tại thôn K, xã N, huyện P và Triệu Văn T1, sinh năm: 1967 trú tại thôn K, xã N. Tang vật thu giữ: 01 (một) mảnh giấy hai mặt đều màu trắng có dòng kẻ và 01 (một) mảnh giấy hai mặt màu trắng bạc, một mặt có vệt màu đen được niêm phong trong phong bì ký hiệu TB; 01 (một) bật lửa gas màu vàng. B và T1 khai nhận vừa mua ma túy với H và ra bãi ngô gần nhà để sử dụng bằng hình thức hít, khi vừa sử dụng ma túy xong thì Cơ quan Công an phát hiện và lập biên bản.

Ngày 23/12/2022, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Dương Văn H, kết quả thu giữ: trong ngăn dưới bên phải tủ kệ ti vi ở phòng khách 01 (một) túi nilon màu hồng bên trong túi nilon có 10 (mười) gói đều được gói bằng nilon trong suốt, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục và bột không rõ hình thù. Niêm phong trong phong bì ký hiệu K1 do Hiệu tự nguyện giao nộp.

Tại biên bản mở niêm phong, cân xác định trọng lượng ngày 23/12/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh xác định: 04 (bốn) viên nén màu hồng bên trong hộp ký hiệu Q có khối lượng là 0,431g (không phẩy bốn ba một gam), niêm phong trong phong bì ký hiệu C1 gửi giám định; 10 gói chất bột màu trắng dạng cục và bột được gói bằng nilon trong suốt có khối lượng là 34,920 g (ba tư phẩy chín hai không gam), niêm phong trong phong bì ký hiệu C2 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 20/KL-KTHS, ngày 31/12/2022 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận:

- 04 (bốn) viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu C1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,431g (không phy bn ba một gam).

- Mu chất màu trắng dạng cục và bột không rõ hình thù có trong phong bì ký hiệu C2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 34,920 g (ba tư phy chín hai không gam).

Qua điều tra xác định: Khoảng 07giờ 00 ngày 22/12/2022, Dương Văn H một mình đi từ nhà đến khu vực gần cổng Bệnh viện huyện B, tỉnh B, tại đây H gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ), H hỏi mua của người đàn ông 01 (một) cây ma túy loại heroine thì được người đàn ông đồng ý và bảo giá là 35.000.000đ (ba mươi năm triệu đồng). H đồng ý và hẹn người đàn ông mang ma túy đến cho H tại đoạn đường thuộc T, thị trấn C, huyện B vào lúc 11 giờ cùng ngày. Đến 11 giờ 00 ngày 22/12/2022, H đến điểm hẹn và gặp người đàn ông, H đưa cho người đàn ông 35.000.000đ (ba mươi năm triệu đồng) và người đàn ông đưa cho H01 (một) túi ma túy bên trong có 10 (mười) gói nhỏ ma túy loại heroine và 04 (bốn) viên ma túy màu hồng gói trong túi loại túi xi lanh. Sau khi mua được ma túy Hiệu mang về nhà trích ra một ít ma túy loại heroine ra để sử dụng và bán cho người khác khi có nhu cầu. Sau đó H cất giấu 10 (mười) gói ma túy, loại heroine vào trong ngăn tủ kệ Tivi, còn 04 (bốn) viên ma túy màu hồng gói trong túi, loại túi xi lanh, H cho vào trong ví giả da màu đen và mang theo người.

Vào khoảng 10 giờ ngày 23/12/2022, trong lúc Hiệu đang xây tường tại nhà thì có Nông Văn B và Triệu Văn T1 đến, T1 trực tiếp nói với H là: Có ma túy không thì để cho một ít, H trả lời là: Có một ít. Sau đó T1 đưa cho Hiệu số tiền là 100.000đ (một trăm nghìn đồng), H nhận tiền rồi lấy trong túi quần bên trái đang mặc 01 (một) bao thuốc lá và lấy ở trong bao thuốc lá ra 01 (một) gói ma túy loại heroine được gói bằng giấy có dòng kẻ đưa cho T1 bằng tay phải. T1 nhận gói ma túy rồi cùng B ra bãi ngô ở gần khu vực nhà H để sử dụng bằng hình thức hít, khi B cùng T1 vừa sử dụng ma túy xong thì lực lượng Công an phát hiện, lập biên bản. Việc T1 và B sử dụng ma túy tại bãi ngô thì H không biết và không liên quan.

Tại Bản cáo trạng số: 23/CT-VKSBK-P1, ngày 14/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố bị cáo Dương Văn H về tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều luật 251 có nội dung:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.

...

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng... của các chất đó tương đương với khối lượng... chất ma túy quy định tại một trong các đim từ đim a đến điểm g khoản này.

.......

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Dương Văn H theo cáo trạng. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm h, khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Dương Văn H từ 16 đến 17 năm tù. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) đến 10.000.000đ (mười triệu đồng). Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Dương Văn H phát biểu quan điểm: Nhất trí nội dung Cáo trạng và Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Về mức hình phạt đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo Dương Văn H được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo Dương Văn H tại phiên tòa thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, mong HĐXX xem xét xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Sau khi mua được 04 (bốn) viên nén màu hồng ma tuý loại Methamphetamine, và 10 (mười) gói ma tuý loại Heroine với một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá là 35.000.000đ (ba mươi năm triệu đồng) tại khu vực gần cổng Bệnh viện huyện B, tỉnh B, Dương Văn H mang về nhà trích ra một ít ma túy loại heroine để sử dụng, số còn lại để bán cho người khác để kiếm lời.

Khoảng 10 giờ ngày 23/12/2022, H bán 01 gói nhỏ ma túy loại heroine cho Nồng Văn B và Triệu Văn T1 với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng), đến 10 giờ 45 phút cùng ngày tại khu vực thồn N, xã T, huyện B lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh, bắt quả tang thu giữ của Dương Văn H 04 viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetaminne có khối lượng 0,431g và qua khám xét nơi ở thu giữ của Dương Văn H 10 gói nhỏ ma túy loại Hêrôin có khối lượng 34,920 g là vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 20/KL-KTHS, ngày 31/12/2022 của Phòng K Công an tỉnh B kết luận: 04 (bốn) viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu C1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,431g (không phy bn ba một gam). Mu chất màu trng dạng cục và bột không rõ hình thù có trong phong bì ký hiệu C2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 34,920 g (ba tư phy chín hai không gam).

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo. Lời khai của bị cáo phù hợp với vật chứng của vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ. Bị cáo thực hiện hành vi khi có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật.

Xét tính chất, hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân xấu mặc dù đã bị xét xử về tội phạm liên quan đến chất ma túy nhưng do hám lợi bị cáo vẫn thực hiện. Do vậy cần buộc bị cáo phải chịu một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa thấy bị cáo có đủ điều kiện để thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền, vì vậy cần phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không có giá trị sử dụng, vật cấm lưu hành; tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước là vật liên quan đến hành vi phạm tội; trả lại cho bị cáo các vật chứng không liên quan đến việc phạm tội.

* Tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng không có giá trị sử dụng gồm:

- 01 (một) Phong bì niêm phong mặt trước phong bì có ký hiệu T17; mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh B, bên trong là ma tuý còn lại sau giám định.

- 01 (một) phong bì ký hiệu C3 mặt sau có 06 (sáu) chữ ký không đọc được, 01 (một) chữ Hiệu, 01 (một) dòng chữ Dương Văn H, 01 (một) dòng chữ Lâm Thị D và 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B, bên trong là vỏ phong bì và giấy gói ma tuý.

- 01 (một) ví giả da màu đen.

- 01 (một) bật lửa ga màu vàng.

- 01 (một) phong bì mặt trước ký hiệu TB; mặt sau có 02 (hai) chữ ký không đọc được, 01 (một) dòng chữ Ma Thị N, 01 (một) chữ Thìn, 01 (một) dòng chữ Triệu Văn T1, 01 (một) chữ Bách, 01 (một) dòng chữ Nông Văn B, bên trong có 02 mảnh giấy gói ma tuý.

* Tạm giữ hóa giá đảm bảo thi hành án cho bị cáo 02 (hai) điện thoại:

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu xanh đen màn hình cảm ứng có số IMEl1: 861945064154036; IMEl2: 861945064154028.

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu hồng nhạt màn hình cảm ứng có số IMEl1: 868405031706478; IMEl2: 868405031706460.

* Trả lại cho bị cáo các vật chứng không liên quan đến việc phạm tội.

- 01 (một) Căn cước công dân số 006088002401 mang tên Dương Văn H.

* Vật chứng gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh B: số tiền 4.700.000đ (bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng) niêm phong trong phong bì T1, xử lý như sau:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 100.000đ (một trăm nghìn đồng) là tiền bán ma túy của bị cáo Dương Văn H.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo số tiền 4.600.000đ (bốn triệu sáu trăm nghìn đồng).

[5] Các vấn đề khác:

- Đối với một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ), đã bán ma túy cho Dương Văn H tại đoạn đường thuộc T, thị trấn C, huyện B, tỉnh B vào ngày 22/12/2022. Qua điều tra xác định do H không cung cấp được họ tên, địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở xác minh, làm rõ.

- Đối với Nông Văn B và Triệu Văn T1 đã có hành vi mua và sử dụng trái phép chất ma tuý. Qua điều tra xác định hành vi của B và T1 chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, nên ngày 28/3/2022, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo đối với B và T1 theo quy định.

[6] Về án phí: Bị cáo Dương Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Văn H 16 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23/12/2022.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Dương Văn H số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để sung nộp ngân sách Nhà nước.

Việc thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sựLuật Thi hành án dân sự.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) Phong bì niêm phong mặt trước phong bì có ký hiệu T17; mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được và 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh B, bên trong là ma tuý còn lại sau giám định; 01 (một) phong bì ký hiệu C3 mặt sau có 06 (sáu) chữ ký không đọc được, 01 (một) chữ Hiệu, 01 (một) dòng chữ Dương Văn H, 01 (một) dòng chữ Lâm Thị D và 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh B, bên trong là vỏ phong bì và giấy gói ma tuý; 01 (một) ví giả da màu đen; 01 (một) bật lửa ga màu vàng; 01 (một) phong bì mặt trước ký hiệu TB; mặt sau có 02 (hai) chữ ký không đọc được, 01 (một) dòng chữ Ma Thị N, 01 (một) chữ Thìn, 01 (một) dòng chữ Triệu Văn T1, 01 (một) chữ Bách, 01 (một) dòng chữ Nông Văn B, bên trong có 02 mảnh giấy gói ma tuý.

+ Trả lại cho bị cáo Dương Văn H 01 (một) Căn cước công dân số 006088002401 mang tên Dương Văn H.

+ Tạm giữ hóa giá đảm bảo thi hành án cho bị cáo 02 (hai) điện thoại:

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu xanh đen màn hình cảm ứng có số IMEl1: 861945064154036; IMEl2: 861945064154028.

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu hồng nhạt màn hình cảm ứng có số IMEl1: 868405031706478; IMEl2: 868405031706460.

+ Vật chứng gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh B: số tiền 4.700.000đ (bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng) niêm phong trong phong bì T1, xử lý như sau:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 100.000đ (một trăm nghìn đồng) là tiền bán ma túy của bị cáo Dương Văn H.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo số tiền 4.600.000đ (bốn triệu sáu trăm nghìn đồng).

(Tình trạng, số lượng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an tỉnh B và Cục thi hành án dân sự tỉnh B).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Dương Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về