Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Phan Thái B, sinh ngày 16/12/1994; nơi sinh: Tại tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: Ấp C, thị trấn M, huyện M1, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đức M, sinh năm 1971 (sống) và bà Lý Thị P, sinh năm 1970 (sống); tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 16/12/2021 cho đến nay (Có mặt).

Họ và tên: Võ Thị T, sinh ngày 18/11/1982; nơi sinh: Tại tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: Ấp N, thị trấn L, huyện L1, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Quốc T, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Trang Thị Thu B, sinh năm 1958 (sống); bị cáo có chồng tên Trần Thái P, sinh năm 1983 (đã ly hôn) và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 16/12/2021 cho đến nay (Có mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 2000; nơi cư trú: Ấp B, thị trấn L, huyện L1, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

- Người chứng kiến: Ông Thạch T, sinh năm 1977; nơi cư trú: Ấp C, thị trấn L, huyện L1, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt Nsau:

Bị cáo Võ Thị T có quen biết với Huỳnh Thị B và không có mâu thuẫn gì với nhau. Ncó mối quan hệ tình cảm với bị cáo Phan Thái B, thông qua N nên bị cáo B có được số điện thoại Zalo của bị cáo T. Bị cáo B sử dụng mạng xã hội Zalo có tên “Thái B” liên lạc với bị cáo T qua Zalo có tên “Bé Beo” và rủ bị cáo T mua ma túy của bị cáo B thì bị cáo T đồng ý.

Vào tháng 5/2021 (bị cáo T và bị cáo B không nhớ ngày), bị cáo B nhắn tin qua Zalo và rủ bị cáo T mua ma túy của bị cáo B với số lượng “25 số” với giá 3.000.000 đồng thì bị cáo T đồng ý. Sau đó, bị cáo B đến gặp T ở thành phố Sóc Trăng (bị cáo B không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của T) và mua “25 số” ma túy với giá 1.800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy từ T thì bị cáo B đem ma túy đến nhà số 59B/3, ấp 3, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú bán cho bị cáo T với giá 3.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì bị cáo T dùng cân điện tử, ống nhựa, bật lửa để chia nhỏ ma túy ra và bán lại cho người khác.

Vào tháng 7/2021 (bị cáo B và bị cáo T không nhớ rõ ngày), bị cáo B đi đến thị trấn Long Phú để gặp Như. Sau đó, bị cáo B và Nthuê phòng nghỉ tại một nhà nghỉ trên địa bàn thị trấn Long Phú (bị cáo B, N không nhớ tên và địa chỉ của nhà nghỉ). Lúc này, bị cáo B và Nnảy sinh ý định sử dụng ma túy nên bị cáo B đưa cho N300.000 đồng để mua ma túy về cùng sử dụng. Lúc này, N liên lạc và mua 300.000 đồng ma túy của bị cáo T. Sau đó, Nvà bị cáo B sử dụng hết ma túy đã mua của bị cáo T.

Sau khi bán ma túy cho Nvà bị cáo B thì bị cáo T còn nhiều lần bán ma túy cho một số người khác nhưng bị cáo T không nhớ tên, địa chỉ và ngày bán, với số tiền thu lợi bất chính 700.000 đồng. Số ma túy còn lại thì bị cáo T để trong hộp nhựa có nắp đậy, trên nắp có chữ COTTON, trong bọc khẩu trang y tế KF94, trong hũ bằng sành màu xanh và cất giấu tại nhiều vị trí trong nhà số 59B/3, ấp 3, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú để bán khi có người hỏi mua.

Đến sáng ngày 16/12/2021, bị cáo B tiếp tục sử dụng Zalo “Thái B” nhắn tin đến Zalo có tên “Bé Beo” của bị cáo T và rủ bị cáo T mua ma túy thì bị cáo T đồng ý. Bị cáo T kêu bị cáo B bán cho bị cáo T ma túy với số lượng “50 số” và xin 01 cái ống thủy tinh (dụng cụ dùng để sử dụng ma túy) thì bị cáo B nói giá cho bị cáo T là 4.500.000 đồng thì bị cáo T đồng ý. Bị cáo T chuyển khoản trước cho bị cáo B 500.000 đồng, số tiền 4.000.000 đồng còn lại thì bị cáo T sẽ đưa khi bị cáo B giao ma túy cho bị cáo T. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo B nhắn tin qua Zalo cho bị cáo T và thông báo là sẽ đến gặp bị cáo T để giao ma túy thì bị cáo T đồng ý. Sau đó, bị cáo B điều khiển xe mô tô biển số 83P3-468.28 đi đến khu vực Cầu Xéo tại thành phố Sóc Trăng gặp T và mua “50 số” ma túy của T với giá 3.500.000 đồng, đồng thời bị cáo B xin T 01 ống thủy tinh (dụng cụ dùng để sử dụng ma túy), T để ma túy trong 01 túi nylon không màu, một đầu kẹp có viền màu xanh được kẹp kín, được để trong 01 cuộn giấy màu trắng được cột lại bằng dây nhựa màu đen kèm theo 01 ống thủy tinh. Sau khi nhận ma túy từ T thì bị cáo B giấu ma túy vào túi áo khoác có chữ H-P-T đang mặc rồi điều khiển xe mô tô biển số 83P3-468.28 từ thành phố Sóc Trăng đến ấp C, thị trấn L, huyện L1 để bán cho bị cáo T. Khi bị cáo B đến nhà bị cáo T thì bị cáo B đi vào khu vực cửa nhà trước của bị cáo T và gặp bị cáo T, bị cáo B đưa ma túy để trong 01 túi nylon không màu, một đầu kẹp có viền màu xanh được kẹp kín, để trong 01 cuộn giấy màu trắng được cột lại bằng dây nhựa màu đen kèm theo 01 ống thủy tinh, đưa cho bị cáo T thì bị cáo T đưa cho bị cáo B số tiền 4.000.000 đồng. Ngay lúc này, lực lượng Công an bắt quả tang bị cáo B, bị cáo T và thu giữ các vật chứng, đồng thời khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo T và thu giữ, niêm phong các vật chứng N đã nêu trên.

Bên cạnh đó, lực lượng Công an tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Võ Thị T tại nhà ấp L, thị trấn L, huyện L1, tỉnh Sóc Trăng, quá trình khám xét thu giữ được:

- 01 (một) hộp nhựa có nắp đậy, trên nắp có chữ COTTON để trên tủ nhựa màu kem đặt ở góc khu vực nhà trước. Kiểm tra bên trong hộp nhựa phát hiện nhiều xấp khăn khô, kiểm tra dưới xấp khăn khô phát hiện 01 (một) mảnh khăn khô được quấn băng keo hai mặt màu trắng bên ngoài, bên trong khăn khô có 01 (một) túi nylon không màu một đầu kẹp có viền màu xanh được kẹp kín chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu: Gói 03).

- 01 (một) bọc khẩu trang y tế KF94, NSX: 10/2021, HSD: 10/2024 để ở trên nệm đặt ở khu vực nhà trước, kiểm tra bên trong bọc khẩu trang phát hiện 10 (mười) cái khẩu trang và 03 (ba) túi nylon không màu một đầu kẹp có viền màu đỏ, trong đó: Bên trong túi nylon thứ nhất có 09 (chín) đoạn ống nhựa không màu được hàn kín đều có chứa tinh thể rắn màu trắng; bên trong túi nylon thứ hai có 01 (một) cuộn giấy được quấn băng keo hai mặt màu trắng bên ngoài, bên trong chứa 01 (một) đoạn ống nhựa không màu một đầu kẹp được kẹp kín chứa tinh thể rắn màu trắng; bên trong túi nylon thứ ba có 10 (mười) đoạn ống nhựa không màu được hàn kín đều có chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu: Gói 04); 01 (một) đoạn ống nhựa không màu được hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng thu được ở kệ nhựa màu trắng đặt ở lối đi từ nhà trước ra nhà sau (ký hiệu: Gói 05).

- 04 (bốn) ống thủy tinh có một đầu hình cầu thu được ở trên kệ tại khu vực nhà sau.

- 01 (một) hũ bằng sành màu xanh có nắp đậy trên nắp có chữ HANSUSAM RED GINSENG SAFFRON thu được tại khoảng trống giữa hai vách tường tại khu vực nhà sau, bên trong hũ có: 01 (một) cái cân điện tử; 02 (hai) bật lửa màu xanh, trên bật lửa có hình quả táo màu đỏ; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) có một đầu nhọn; 03 (ba) túi nylon không màu một đầu kẹp có viền màu đỏ, trong đó: Bên trong túi nylon thứ nhất có 02 (hai) đoạn ống nhựa không màu được hàn kín đều có chứa tinh thể rắn màu trắng; bên trong túi nylon thứ hai có 03 (ba) đoạn ống nhựa không màu được hàn kín đều có chứa tinh thể rắn màu trắng; bên trong túi nylon thứ ba có 01 (một) túi nylon không màu một đầu kẹp được hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu: Gói 06) và 21 (hai mươi mốt) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu.

Tại kết luận giám định số 179/GĐMT-PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, kết luận:

- Gói 01: Mẫu tinh thể rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 5,0534 gam, loại Methamphetamine (Gói niêm phong 01 khi bắt quả tang).

- Gói 02: Mẫu tinh thể rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,2835 gam, loại Methamphetamine (Gói niêm phong 03 khi khám xét khẩn cấp).

- Gói 03: Mẫu tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu A1, A2, A3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,7236 gam, loại Methamphetamine (Gói niêm phong 04 khi khám xét khẩn cấp).

- Gói 04: Mẫu tinh thể rắn màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,0572 gam, loại Methamphetamine (Gói niêm phong 05 khi khám xét khẩn cấp).

- Gói 05: Mẫu tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu A1, A2, A3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,6940 gam, loại Methamphetamine (Gói niêm phong 06 khi khám xét khẩn cấp).

Tổng khối lượng chất ma túy là 9,8117 gam, loại Methamphetamine.

Tại cáo trạng số: 23/CT-VKS-LP ngày 03/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố các bị cáo Phan Thái B về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Võ Thị T theo quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo bị cáo Phan Thái B về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); đối với bị cáo Võ Thị T rút một phần truy tố cụ thể truy tố theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị:

Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 17; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Phan Thái B từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù;

Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 17; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Võ Thị T từ 08 năm đến 09 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 2 Điều 35, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt các bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu và tiêu hủy: Gói 01: 5,0289 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 02: 0,2579 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 03: 1,6253 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 04: 0,0335 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 05: 2,5168 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 (một) cuộn giấy màu trắng; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) dây nhựa màu đen; 01 (một) túi nylon không màu, một đầu kẹp có viền màu đỏ; 01 (một) cái áo khoác màu xanh đen, bên trong cổ áo có chữ H-P-T màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) hộp nhựa có nắp đậy, trên nắp có chữ COTTON bên trong có nhiều xấp khăn khô; 01 (một) bọc khẩu trang y tế KF94, NSX: 10/2021, HSD: 10/2024; 10 (mười) cái khẩu trang; 04 (bốn) ống thủy tinh có một đầu hình cầu; 01 (một) hủ bằng sành màu xanh có nắp đậy trên nắp có chữ HANSUSAM RED GINSENG SAFFRON; 01 (một) cái cân điện tử; 02 (hai) bật lửa màu xanh, trên bật lửa có hình quả táo màu đỏ; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) có một đầu nhọn; 21 (hai mươi mốt) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 83P3- 468.28; tiền Việt Nam 4.000.000 đồng là số tiền bị cáo T mua ma túy của bị cáo B;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xanh, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh ngọc, loại bàn phím, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím, đã qua sử dụng; 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng bị hư hỏng đã qua sử dụng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Phan Thái B đồng ý giao nộp 3.500.000 đồng và bị cáo Võ Thị T giao nộp 1.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình Nđã nêu trên, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, thống nhất với kết luận giám định. Tại phiên tòa bị cáo Phan Thái B đồng ý giao nộp 3.500.000 đồng và bị cáo Võ Thị T giao nộp 1.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước. Tại lời nói sau cùng các bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định Nsau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Long Phú, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt bà Huỳnh Thị B, ông Thạch T. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không yêu cầu hoãn phiên tòa. Căn cứ vào 293 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện Long Phú huyện Long Phú rút một phần quyết định truy tố theo cáo trạng số 23/CT-VKS-LP ngày 03/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Võ Thị T theo quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); nay truy tố bị cáo Võ Thị T theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa các bị cáo đồng ý và không có ý kiến gì. Căn cứ vào Điều 298; Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử bị cáo Võ Thị T theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai rõ hành vi phạm tội của mình Ntại cơ quan Điều tra, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Hiện trường vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết luận giám định số 179/GĐMT-PC09 ngày 20/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, vật chứng của vụ án và phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cụ thể: Vì muốn thu lợi bất chính nên bị cáo Phan Thái B đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Võ Thị T để bị cáo T bán lại cho người nghiện nhằm thu lợi bất chính, cụ thể: Lần thứ nhất: Vào tháng 5/2021, tại nhà số 59B/3, ấp 3, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo B bán ma túy cho bị cáo T với số tiền 3.000.000 đồng. Sau đó, vào tháng 7/2021 bị cáo T bán ma túy cho bị cáo B và Nđể sử dụng với số tiền 300.000 đồng. Tiếp đó, T bán ma túy cho nhiều người khác để thu lợi với số tiền 700.000 đồng. Số ma túy còn lại có khối lượng 4,7583 gam chất Methamphetamine thì bị cáo T cất giấu tại nhiều vị trí trong nhà của bị cáo T tại số 59B/3, ấp 3, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng nhằm mục đích bán lại cho người khác để thu lợi bất chính. Số ma tuý T đã bán không thu được nên không xác định được trọng lượng để xử lý; Lần thứ hai: Vào ngày 16/12/2021, tại nhà số 59B/3, ấp 3, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng khi bị cáo Phan Thái B đang bán 5,0534 gam chất ma túy Methamphetamine cho bị cáo Võ Thị T với giá 4.500.000 đồng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Tổng khối lượng chất ma túy Methamphetamine mà bị cáo Phan Thái B và bị cáo Võ Thị T mua bán trái phép là 9,8117 gam. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy hai lần trở lên với tổng khối lượng chất ma túy Methamphetamine mà bị cáo Phan Thái B và bị cáo Võ Thị T mua bán trái phép là 9,8117 gam nhằm thu lợi bất chính mà các bị cáo đã thực hiện đã phạm vào Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tội phạm của các bị cáo đã hoàn thành.

[5] Do đó, cáo trạng số 23/CT-VKS-LP ngày 03/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tuy nhiên, trong vụ án này bị cáo Phan Thái B và bị cáo Võ Thị T không có sự bàn bạc thỏa thuận, phân công vai trò không thể hiện sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện hành vi phạm tội nên các bị cáo phạm tội là có đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn.

[6] Để cá thể hóa hình phạt của từng bị cáo, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của từng bị cáo Nsau:

Đối với bị cáo Phan Thái B: Trong vụ án này bị cáo giữ vai chính vì bị cáo là người rủ rê, xúi giục và người thực hành cụ thể: Vào tháng 5/2021, bị cáo nhắn tin qua Zalo và rủ bị cáo T mua ma túy của bị cáo B với số lượng “25 số” với giá 3.000.000 đồng; vào ngày 16/12/2021, bị cáo B nhắn tin qua Zalo và rủ bị cáo T mua ma túy đang bán 5,0534 gam chất ma túy Methamphetamine cho bị cáo Võ Thị T với giá 4.500.000 đồng và bị cáo là người trực tiếp giao dịch, mua bán, giao ma túy với bị cáo T nên cần có hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, không có tình tiết tăng nặng; bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Đối với bị cáo Võ Thị T: Trong vụ án này bị cáo là người thực hành cụ thể: Vào tháng 5/2021 bị cáo B nhắn tin qua Zalo và rủ bị cáo T mua ma túy của bị cáo B với số lượng “25 số” với giá 3.000.000 đồng thì bị cáo T đồng ý. Vào tháng 7/2021, bị cáo bán cho Nvà bị cáo B 300.000 đồng ma túy để sử dụng; bị cáo còn nhiều lần bán ma túy cho một số người khác với số tiền thu lợi bất chính 700.000 đồng. Số ma túy còn lại thì bị cáo để trong hộp nhựa có nắp đậy, trên nắp có chữ COTTON, trong bọc khẩu trang y tế KF94, trong hũ bằng sành màu xanh và cất giấu tại nhiều vị trí trong nhà số 59B/3, ấp 3, thị trấn Long Phú, huyện Long Phú để bán khi có người hỏi mua; đến ngày 16/12/2021, bị cáo B tiếp tục sử dụng Zalo “Thái B” nhắn tin đến Zalo có tên “Bé Beo” của bị cáo T và rủ bị cáo T mua ma túy thì bị cáo T đồng ý; bị cáo kêu bị cáo B bán cho bị cáo T ma túy với số lượng “50 số”; bị cáo chuyển khoản trước cho bị cáo B 500.000 đồng nên cần có hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, không có tình tiết tăng nặng; bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[7] Mặt khác, căn cứ vào tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên ngoài hình phạt chính đối chiếu khoản 2 Điều 35; khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần có hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với mỗi bị cáo với mức 5.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước là có căn cứ.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Long Phú đã thu giữ:

- Gói 01: 5,0289 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 02: 0,2579 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 03: 1,6253 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 04: 0,0335 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT- PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 05: 2,5168 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu và tiêu hủy.

- 01 (một) cuộn giấy màu trắng; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) dây nhựa màu đen; 01 (một) túi nylon không màu, một đầu kẹp có viền màu đỏ; 01 (một) cái áo khoác màu xanh đen, bên trong cổ áo có chữ H-P-T màu trắng, đã qua sử dụng;

01 (một) hộp nhựa có nắp đậy, trên nắp có chữ COTTON bên trong có nhiều xấp khăn khô; 01 (một) bọc khẩu trang y tế KF94, NSX: 10/2021, HSD: 10/2024; 10 (mười) cái khẩu trang; 04 (bốn) ống thủy tinh có một đầu hình cầu; 01 (một) hủ bằng sành màu xanh có nắp đậy trên nắp có chữ HANSUSAM RED GINSENG SAFFRON; 01 (một) cái cân điện tử; 02 (hai) bật lửa màu xanh, trên bật lửa có hình quả táo màu đỏ; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu; 2 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) có một đầu nhọn; 21 (hai mươi mốt) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu và tiêu hủy.

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 83P3-468.28 của bị cáo Phan Thái B dùng làm phương tiện phạm tội căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Tiền Việt Nam 4.000.000 đồng là số tiền bị cáo T mua ma túy của bị cáo B căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xanh, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh ngọc, loại bàn phím, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím, đã qua sử dụng; 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng bị hư hỏng đã qua sử dụng căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Phan Thái B đồng ý giao nộp 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) và bị cáo Võ Thị T giao nộp 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

[9] Đối với người tên T ở khu vực Cầu Xéo thuộc thành phố Sóc Trăng đã bán ma túy cho bị cáo B nhưng không xác định được họ tên và địa chỉ chưa đủ căn cứ để xử lý người tên T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú đang tiếp tục xác minh, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

[10] Đối với Huỳnh Thị B, quá trình điều tra xác định mặc dù thông qua Nthì bị cáo B có được số điện thoại Zalo của bị cáo T nhưng việc bị cáo T và bị cáo B mua bán trái phép chất ma túy thì Nkhông biết. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú không xử lý Nlà có căn cứ.

[11] Đối với việc bị cáo B và Nsử dụng trái phép chất ma túy vào tháng 7/2021 nhưng B và Nkhông nhớ ngày, không nhớ địa điểm, qua việc thử nước tiểu thì bị cáo B và Nâm tính với chất ma túy, đồng thời không thu giữ được vật chứng. Bên cạnh đó, Nvà B khai tại thời điểm mua ma túy, B đưa tiền cho Nmua ma túy về để hai người sử dụng chung, không có việc phân công, tổ chức nên không có căn cứ để xử lý Nvà bị cáo B về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ.

[12] Đối với việc bị cáo B bán cho bị cáo T 01 (một) ống thủy tinh có một đầu hình cầu (là dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy) và việc bị cáo Võ Thị T cất giấu 04 (bốn) ống thủy tinh có một đầu hình cầu (là dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy) nhằm bán lại cho người khác. Do bị cáo B và bị cáo T không có tiền án, tiền sự và số lượng đơn vị dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo B và bị cáo T không đủ định lượng nên không khởi tố bị cáo B và bị cáo T về Tội mua bán dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Công an huyện Long Phú đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo B và bị cáo T về hành vi này là có căn cứ, đúng pháp luật.

[13] Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[13] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, về hình phạt, việc áp dụng pháp luật, xử lý vật chứng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phan Thái B, Võ Thị T phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 17; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Phan Thái B Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 17; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Võ Thị T.

1. Xử phạt bị cáo Phan Thái B 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/12/2021.

2. Xử phạt bị cáo Võ Thị T 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/12/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 251; khoản 2 Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bổ sung bị cáo Phan Thái B số tiền là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

Xử phạt bổ sung bị cáo Võ Thị T số tiền là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

4. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu và tiêu hủy: Gói 01: 5,0289 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 02: 0,2579 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 03: 1,6253 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 04: 0,0335 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; gói 05: 2,5168 gam mẫu tinh thể rắn màu trắng còn lại sau giám định được niêm phong phong bằng giấy trắng và băng keo không màu, trong phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 179/GĐMT-PC09, ngày 20 tháng 12 năm 2021, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh T, Trợ lý giám định Phùng T1, Điều tra viên Huỳnh Duy K và 02 (hai) dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 (một) cuộn giấy màu trắng; 01 (một) ống thủy tinh; 01 (một) dây nhựa màu đen; 01 (một) túi nylon không màu, một đầu kẹp có viền màu đỏ; 01 (một) cái áo khoác màu xanh đen, bên trong cổ áo có chữ H-P-T màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) hộp nhựa có nắp đậy, trên nắp có chữ COTTON bên trong có nhiều xấp khăn khô; 01 (một) bọc khẩu trang y tế KF94, NSX: 10/2021, HSD: 10/2024; 10 (mười) cái khẩu trang; 04 (bốn) ống thủy tinh có một đầu hình cầu; 01 (một) hủ bằng sành màu xanh có nắp đậy trên nắp có chữ HANSUSAM RED GINSENG SAFFRON; 01 (một) cái cân điện tử; 02 (hai) bật lửa màu xanh, trên bật lửa có hình quả táo màu đỏ; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu; 02 (hai) đoạn ống nhựa (loại lớn) có một đầu nhọn; 21 (hai mươi mốt) đoạn ống nhựa (loại nhỏ) được hàn kín một đầu.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 83P3- 468.28; Tiền Việt Nam 4.000.000 đồng là số tiền bị cáo T mua ma túy của bị cáo B;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xanh, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh ngọc, loại bàn phím, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím, đã qua sử dụng; 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG, màu xám, màn hình cảm ứng bị hư hỏng đã qua sử dụng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Phan Thái B đồng ý giao nộp 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) và bị cáo Võ Thị T giao nộp 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Phan Thái B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Buộc bị cáo Võ Thị T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về