Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 29/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C- tỉnh P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2020/TLST-HS, ngày 09/7/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXX-ST ngày 24/7/2020 đối với:

Bị cáo Đỗ Văn T-sinh ngày 27/7/1980 tại huyện C, tỉnh P; nơi cư trú: Khu H 1, xã H, huyện C, tỉnh P; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; con ông Đỗ Văn T (Đã chết) và bà Đỗ Thị X - sinh năm 1947; có vợ là Nguyễn Thị M - sinh năm 1980 (Đã ly hôn) và 02 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2017); tiền sự, tiền án: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 31/HSST ngày 15/7/1997 của Tòa án nhân dân huyện Sông Thao (nay là C), tỉnh P đã xử phạt Đỗ Văn T 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản công dân”, 06 tháng tù về tội “đánh bạc”, Đỗ Văn T phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 tháng (Đỗ Văn T đã chấp hành xong và đã được xóa án tích).

Danh chỉ bản số 131 do Công an huyện C, tỉnh P lập ngày 30/3/2020;

Bị bắt tạm giữ ngày 30/3/2020 đến ngày 08/4/2020, thay thế bằng biện pháp “cấm đi khỏi nơi cư trú” và được tại ngoại. Có mặt.

*Người làm chứng: Anh Hà Minh T - sinh năm 1984; nơi cư trú: Khu Xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh P. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 30/3/2020, tại đoạn đường trên Quốc Lộ 32C thuộc địa phận, khu H 1, xã H, huyện C, tỉnh P, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện C phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Văn T– sinh năm 1980, nơi cư trú: Khu H 1, xã H, huyện C, tỉnh P đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại chỗ T lấy trong túi áo trước bên phải đang mặc 02 (hai) gói giấy (01 gói có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng; 01 gói có mặt ngoài nhiều màu sắc, mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng) tự nguyện giao nộp cho cơ quan điều tra. T khai nhận đây là gói ma túy (heroine). Mục đích của T tàng trữ gói ma túy này để bán cho Hà Minh T, sinh năm 1984 ở Khu xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh P.

Ngoài ra, cơ quan điều tra còn tạm giữ của T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0942.223.xxx; 01 (một) xe mô tô, Biển kiểm soát 19G1-xxxxx; 1.700.000đ (một triệu bẩy trăm nghìn đồng), tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam;

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đỗ Văn T ở khu H 1, xã H, huyện C, tỉnh P, quá trình khám xét đã thu giữ 01(một) túi nilon bên trong có 03(ba) gói giấy đều có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng Tại Kết luận giám định số 394/KLGĐ ngày 02/4/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận:

“Chất bột, cục màu trắng chứa trong 02 gói giấy trong đó 01 gói giấy có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng; 01 gói có mặt ngoài nhiều màu sắc, mặt trong màu trắng, được niêm phong trong bì giấy ghi vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Đỗ Văn T, gửi giám định gửi giám định là ma túy; có tổng khối lượng: 0,206 gam, loại: Heroine.

Chất bột, cục màu trắng chứa trong 03 gói giấy đều có đặc điểm mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, 03 gói giấy này được đựng trong 01 túi nilon màu trắng, được niêm phong trong bì giấy ghi vật chứng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đỗ Văn T, gửi đến giám định gửi giám định là ma túy; có tổng khối lượng: 0,634 gam, loại: Heroine.

*Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định: 0,133 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong bì giấy ghi vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Đỗ Văn T và 0,435 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định trong bì giấy ghi vật chứng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đỗ Văn T, được dán kí, niêm phong trong 01 bì giấy bên ngoài có đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P và chữ ký của các thành phần có liên quan tại các mép dán.” Tại cơ quan điều tra, T khai nhận: Buổi trưa ngày 30/3/2020, Hà Minh T, sinh năm 1984 ở xã T, huyện Y, tỉnh P dùng số điện thoại 086504xxxx gọi vào số 0942223xxx của T để hỏi mua 500.000đ tiền ma túy. Đến khoảng 14 giờ 30 ngày 30/3/2020, T đúc 02 gói ma túy vào túi áo khoác rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware Biển kiểm soát 19G1-xxxx đi đến khu vực cầu T thuộc xã H, huyện C, tỉnh P để bán cho Hà Minh T, tuy nhiên khi đến khu vực cầu T, T chưa gặp được T để bán ma túy cho T thì bị phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang như đã nêu trên. Ngoài ra T khai nhận 03 gói ma túy mà T tàng trữ ở nhà, T nhằm mục đích để bán cho ai có nhu cầu để kiếm lời.

Về nguồn gốc số ma túy nêu trên, T khai nhận ngày 29/3/2020 T mua của 01 người nam giới mà T không biết tên, tuổi địa chỉ ở đâu tại nút giao IC10 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai với số tiền 2.000.000đ Trong vụ án này, đối với người nam giới đã bán ma túy cho T như T đã khai, quá trình điều tra, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được.

Đối với Hà Minh T, sinh năm 1984 ở Khu xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh P, quá trình điều tra đã làm rõ T là người liên lạc, trao đổi mua ma túy của T để sử dụng, tuy nhiên T chưa gặp được T để mua ma túy, nên không đề cập xử lý đối với T.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKSCK, ngày 04/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh P đã quyết định truy tố Đỗ Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX:

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T từ 27 đến 30 tháng tù.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 bì giấy được niêm phong số 394/KLGĐ, bên trong có 0,568gam chất bột cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 sim điện thoại.

- Tịch thu của bị cáo Đỗ Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen, trắng, biển kiểm soát 19G1-xxxx để sung quỹ nhà nước.

- Trả cho bị cáo Đỗ Văn T 1.700.000đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí:

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Đỗ Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và có lời nói sau cùng là: Bị cáo rất ân hận về hành vi của bản thân, mong có cơ hội sửa chữa sai lầm và cam đoan không bao giờ vi phạm pháp luật hoặc phạm tội nữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 30/3/2020, tại đoạn đường khu vực cầu T thuộc khu H 1, xã H, huyện C, tỉnh P, bị cáo Đỗ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy có khối lượng 0,206gam, loại Heroin nhằm mục đích để bán cho anh Hà Minh T- sinh năm 1984; cư trú tại: Khu Xóm C, xã T, huyện Y, tỉnh P và có hành vi tàng trữ trái phép 03 gói ma túy có khối lượng 0,634gam, loại Heroin tại chỗ ở của bị cáo thuộc khu H 1, xã H, huyện C, tỉnh P nhằm mục đích bán cho người có nhu cầu mua. Hành vi nêu trên của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 251 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Đỗ Văn T là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý, sử dụng chất ma túy của nhà nước, góp phần làm lan truyền tệ nạn nghiện hút mtúyT; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo không có tiền sự, tiền án nhưng có 01 tiền sử về tội trộm cắp tài sản công dân và tội đánh bạc.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nhưng được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: bố đẻ bị cáo có công với cách mạng, được thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, trên cơ sở để phục vụ công tác đấu tranh chống, phòng ngừa chung tội phạm và tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là áp dụng hình phạt tù với mức đủ để bị cáo tỉnh ngộ, sớm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, kết quả xác minh của Cơ quan điều tra và lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo sống cùng mẹ đẻ, không có tài sản riêng. Do vậy, cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo T còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, sim điện thoại không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu hủy; Điện thoại di động, xe mô tô thu giữ của bị cáo T là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung quỹ nhà nước; 1.700.000đồng đã thu giữ là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan tới tội phạm, cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, Cơ quan CSĐT Công an huyện C không đề cập xử lý đối với anh Hà Minh T, với lý do như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Trừ cho bị cáo 09 (Chín) ngày tạm giữ (Từ ngày 30/3/2020- 08/4/2020), bị cáo T còn phải chấp hành 29 (Hai mươi chín) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo T chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 và điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 bì giấy được niêm phong số 394/KLGĐ, bên trong có 0,568gam chất bột cục màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định, có đóng 05 dấu tròn màu đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh P và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán; 01 sim điện thoại di động (Theo Biên bản giao vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện C ngày 09/7/2020).

- Tịch thu của bị cáo Đỗ Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen, trắng, biển kiểm soát 19G1-xxxx để sung quỹ nhà nước (Theo biên bản giao vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện C ngày 09/7/2020).

- Trả cho bị cáo Đỗ Văn T 1.700.000đ (Một triệu bẩy trăm nghìn đồng) theo biên bản giao vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện C ngày 09/7/2020 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí:

Áp dụng: khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Đỗ Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh P để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 29/2020/HS-ST

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về