TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 273/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 213/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 260/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 với:
Bị cáo Trần Thị Xuân M.
Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nữ.
Sinh năm 1984, tại Bến Tre.
Nơi cư trú: 21/1, khu phố 1, phường T, quận 12, thành phố H.
Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Thiên Chúa. Nghề nghiệp: Không - Trình độ học vấn: Lớp 07/12.
Họ tên cha: Trần Văn M - Sinh năm: 1955 (Đã chết).
Họ tên mẹ: Võ Thị Kim N - Sinh năm: 1955 (Còn sống).
Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ ba và chưa có chồng, con. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị tạm giữ từ ngày 25-12-2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 75 ngày 31-12-2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính của vụ án:
Trần Thị Xuân M là người sử dụng trái phép chất ma túy. Để có tiền mua ma túy sử dụng, M nảy sinh ý định thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Thực hiện ý định trên, vào các ngày 19-12-2021 và 25-12-2021, M đã 02 (Hai) lần điều khiển xe mô tô biển số 37Z9-9035 đi đến khu vực “bồn nước” thuộc phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, mua ma túy của người đàn ông tên Sơn (không rõ lai lịch, địa chỉ). Lần thứ nhất, M mua 03 (Ba) tép Heroin và 03 (Ba) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Lần thứ hai, M mua 05 (Năm) tép Heroin và 05 (Năm) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Sau mỗi lần mua, M lấy một phần Heroin và ma túy tổng hợp (hàng đá) ra sử dụng, phần ma túy còn lại Mai cất giấu để bán cho người khác. Cách thức: Khi bán ma túy M đến đứng tại đoạn đường trước ngân hàng Viettinbank thuộc tổ 1, khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Khi người nghiện cần mua ma túy sẽ gặp M rồi hai bên thực hiện hành vi mua bán. Với cách thức trên, M đã 02 (Hai) lần bán ma túy cho Trần Hữu T. Cụ thể:
- Lần 1: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 24-12-2021 tại địa điểm nêu trên, M đã bán cho T 01 (Một) tép Heroin và 01 (Một) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng).
- Lần 2: Vào khoảng 07 giờ 15 phút ngày 25-12-2021 tại địa điểm nêu trên, M đang đứng cùng cháu Trần Tường V (sinh ngày 25-6-2009, cháu gái Mai) và M đang thỏa thuận bán cho T 01 (Một) tép Heroin và 01 (Một) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng) nhưng chưa bán.
Lúc này, Tổ tuần tra Phòng PC06 Công an tỉnh Đồng Nai phối hợp Công an phường L đi đến. Nhìn thấy lực lượng Công an, M ném 05 (Năm) tép Heroin và 05 (Năm) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) đang cầm trên tay trái xuống đường gần vị trí Mai đứng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.
Quá trình điều tra, Trần Thị Xuân M khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng vụ án:
- 05 (Năm) tép (đoạn ống nhựa màu trắng đục hàn kín) bên trong chứa chất bột màu trắng (Ký hiệu M1) và 05 (Năm) tép (đoạn ống nhựa màu trắng đục hàn kín) bên trong chứa tinh thể màu trắng (Ký hiệu M2).
Đối với xe mô tô hiệu Honda biển số 37Z9-9035 Trần Thị Xuân M sử dụng làm phương tiện đi bán ma túy: Quá trình điều tra, M khai mua xe mô tô nêu trên của một người bạn (không rõ tên, địa chỉ) vào khoảng năm 2015 (không có hợp đồng mua bán bằng văn bản). Kết quả điều tra xác định xe mô tô biển số 37Z9-9035 ban đầu do chị Nguyễn Thị H đứng tên đăng ký xe, chị H khai đã bán xe mô tô cho người khác (không rõ tên, địa chỉ) vào khoảng năm 2009. Xác minh tại Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra (Phòng PC01) Công an tỉnh Đồng Nai, xe mô tô biển số 37Z9-9035 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Do chưa làm rõ được nguồn gốc và chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách xe mô tô hiệu Honda biển số 37Z9-9035 ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
(Tại Bản kết luận giám định số 2515/KLGĐ-PC09 ngày 31-12-2021 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:
- Mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1785gam, loại: Heroin (Heroine).
- Mẫu tinh thể màu trắng (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0297gam, loại: Methamphetamine.
Quá trình điều tra, M khai nhận số tiền 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng) Mai bán ma túy cho T ngày 24-12-2021 Mai đã sử dụng để tiếp tục mua ma túy thì bị bắt nên M chưa thu lợi bằng tiền; Số ma túy do M mua ngày 24-12-2021 còn lại M đã sử dụng hết.
2. Truy tố:
Tại Cáo trạng số: 234/CT-VKSBH-HS ngày 11/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Thị Xuân M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;
Áp dụng điểm b khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Trần Thị Xuân M từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tố tụng:
Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:
- Những chứng cứ xác định có tội: Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận giám định, biên bản ghi lời khai người làm chứng, người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Vào các ngày 24-12-2021 và 25-12-2021, tại đoạn đường trước ngân hàng Viettinbank thuộc tổ 1, khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Trần Thị Xuân M đã 02 (Hai) lần bán ma túy trái phép cho Trần Hữu T. Trong đó, lần thứ nhất M bán cho T 01 (Một) tép Heroin và 01 (Một) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 70.000đ (Bảy mươi nghìn đồng), lần thứ hai M đang thỏa thuận bán cho T 01 (Một) tép Heroin và 01 (Một) tép ma túy tổng hợp (hàng đá) nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ tuần tra Phòng PC06 Công an tỉnh Đồng Nai phối hợp Công an phường L phát hiện bắt quả tang, thu giữ 0,1785gam ma túy loại Heroin (Heroine) và 0,0297gam ma túy loại Methamphetamine của Mai đang cất giấu với mục đích để bán cho người khác.
- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Trần Thị Xuân M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, bản cáo trạng số 234/CT-VKSBH-HS ngày 11/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành, có đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra cũng như việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để đảm bảo sự nghiêm minh của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.
[3] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, bản thân lại nghiện chất ma tuý, không có điều kiện để thi hành, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định;
[5] Về các nội dung khác có liên quan đến vụ án:
- Xe mô tô hiệu Honda biển số 37Z9-9035 Trần Thị Xuân M sử dụng làm phương tiện đi bán ma túy do chưa làm rõ được nguồn gốc và chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách xe mô tô hiệu Honda biển số 37Z9-9035 ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.
- Đối với Trần Hữu T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Biên Hòa đã xử phạt hành chính là phù hợp.
- Đối với cháu Trần Tường V: Quá trình điều tra làm rõ cháu V không biết Trần Thị Xuân M mua bán trái phép chất ma túy và không liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra không xử lý là đúng quy định.
- Đối với người đàn ông tên S (không rõ lai lịch, địa chỉ) có hành vi bán ma túy cho M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là phù hợp.
[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[7] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:
- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):
- Tuyên bố bị cáo Trần Thị Xuân M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Trần Thị Xuân M 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ lượng ma túy còn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 gói niêm phong số: 2515 ngày 31/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Trần Thị Xuân M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Bị cáo được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 273/2022/HS-ST
Số hiệu: | 273/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về