Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 264/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 264/2022/HS-PT NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 129/2022/TLPT-HS ngày 22 tháng 02 năm 2022. Do có kháng cáo của bị cáo Trịnh Thành C, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo: Trịnh Thành C; Sinh năm 1989; Giới tính: Nam; HKTT:

561/17 PVC, Phường X, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên cha: Trịnh Thành T; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Mộng Th; Họ và tên vợ: Nguyễn Hà Ngọc A, có 2 con sinh năm 2010, 2017. Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giam ngày 03/12/2020 (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đỗ Ngọc O, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:

Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 31/12/2020, tại trước nhà số MP62 đường Nguyễn Thị Kiểu, Tổ 1A, Khu phố 1, phường Hiệp Thành, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, Trịnh Thành C điều khiển xe máy mang biển số 59E1-888.99 chở Lê Thị Kim Tr thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 12 yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua tiến hành kiểm tra, phát hiện C có cất giấu ma túy nên Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ của C một số vật chứng như sau:

Thu giữ trong lai tay áo bên trái do C đang mặc có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,8567g loại Methamphetamine).

01 điện thoại di động; 01 xe máy mang biển số 59E1-888.99;

6.000.000đồng.

Lúc 01 giờ 10 phút ngày 01/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 12 khám xét khẩn cấp nơi ở của C tại nhà số 561/17 đường Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện thu giữ trong phòng ngủ tại lầu 1 một số vật chứng như sau:

Thu giữ trên bàn: 01 bình thủy tinh có gắn “nỏ” và ống hút; 01 muỗng bằng nhựa; 01 chiếc kéo; 01 ống hút nhựa cắt xéo một đầu.

Thu giữ trong tủ gỗ: 01 hộp giấy màu đỏ, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu; 01 hộp giấy bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 2,8909g, loại Ketamine); 04 gói nylon chứa chất bột màu trắng (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 2,042g loại Heroine); 01 gói nylon chứa 03 viên nén màu hồng (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là l,5749g loại Ketamine); 01 gói nylon chứa mảnh vụn viên nén màu xám (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3218 loại Methamphetamine); 01 cân tiểu ly, 03 ống hút nhựa cắt xéo một đầu, 01 chếc “nỏ”, 01 chiếc kéo, 15 túi nylon các loại.

Thu giữ trong hộc tủ đựng quần áo: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 514,52g, loại Methamphetamine).

Thu giữ trên đầu tủ: 02 cây kiếm tự chế và 01 cây đao tự chế bằng kim loại;

số tiền 100.000.000đồng.

Bản kết luận giám định số 353/KLGĐ-H ngày 08/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh): Xác định các tang vật thu giữ nêu trên là ma túy.

Trong lúc khám xét khẩn cấp nơi ở của C, phát hiện thấy đối tượng Trần Nguyễn Bảo A1 đang đứng trước nơi ở của C và có biểu hiện nghi vấn nên Công an Quận 12 đã mời Bảo A1 về trụ sở làm việc và thu giữ của Bảo A1 01 điện thoại di động Nokia, 01 điện thoại di động Masstel và 01 điện thoại di động Qmobile để tiến hành xác minh làm rõ.

Kết quả điều tra, xác định được như sau:

Trịnh Thành C bắt đầu sử dụng ma túy từ đầu năm 2020 và bắt đầu mua bán ma túy vào khoảng tháng 9/2020 (trước khi bị bắt khoảng 3 tháng). C mua ma túy của nhiều người (không rõ lai lịch), trong đó có 1 người có tên gọi là S, rồi bán lại cho những người cũng không rõ lai lịch.

Vào khoảng 16 giờ ngày 25/12/2020, C đi đến khu vực đường Phạm Văn Chiêu, Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh để gặp S và mua của S 500g ma túy đá (Methamphetamine) với giá 130.000.000đồng; S cho C thêm một ít Heroine và Ketamine (thuốc lắc). C mang ma túy về cất giấu trong phòng ngủ của C ở lầu 1, nhà số 561/17 đường Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Khoảng 22 giờ 10 phút ngày 31/12/2020, C chở bạn gái là Lê Thị Kim Tr đi ăn tối thì nhận được điện thoại của một người thanh niên (không rõ lai lịch) ở Quận 12 đặt mua 01 gói ma túy đá với giá 3.000.000đồng, C đồng ý. Sau đó, C chở Tr về nơi ở của C. Khi đến nơi, C bảo Tr đứng dưới đất chờ, còn C đi lên phòng ngủ của mình lấy 01 gói ma túy đá cất giấu vào trong lai tay áo bên trái đang mặc, rồi xuống đất và chở Tr đi bán ma túy.

Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi C đang điều khiển xe máy chở Tr đi trên đường thì bị Công an bắt quả tang.

C đã 02 lần bán ma túy đá cho Trần Nguyễn Bảo A1, cụ thể:

Lần thứ nhất: Cách ngày bị bắt khoảng 02 tuần, ở trước nhà số 561/17 đường Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp, C bán cho Bảo A1 01 gói ma túy đá với giá 900.000đồng.

Lần thứ hai: Vào ngày 28/12/2020, cũng ở tại trước nhà số 561/17 đường Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp, C bán cho Bảo A1 01 gói ma túy đá với giá 3.500.000đồng.

Số ma túy thu giữ được tại nơi ở của C là ma túy mà C đã mua của S vào ngày 25/12/2020.

Bảo A1 đã 02 lần mua ma túy của C để sử dụng cho bản thân, theo đúng như nội dung đã nêu ở phần trên. Khoảng 01 giờ 20 phút ngày 01/01/2021, Bảo A1 đi đến trước nhà số 561/17 đường Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp, với ý định chờ gặp C để mua ma túy thì bị Công an mời về trụ sở làm việc. Qua xét nghiệm, Bảo A1 dương tính với ma túy. Do không đủ căn cứ để xác định Bảo A1 liên quan đến việc mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra đã giao Bảo A1 cho Công an phường Hiệp Thành, Quận 12 xem xét xử lý hành chính theo thẩm quyền.

Qua điều tra, không có căn cứ để xác định Tr liên quan đến việc mua bán ma túy nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tr.

S là đối tượng không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh để điều tra xử lý.

Ông Trịnh Thành T là cha của bị cáo và chủ sở hữu chiếc xe máy mang biển số 59E1-888.99. Ông T đã cho bị cáo mượn xe để sử dụng nhưng không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã giao trả lại chiếc xe cho ông T.

Tại bản Cáo trạng số 334/CT-VKS-P1 ngày 23/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung: Truy tố Trịnh Thành C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h Khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm a khoản b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trịnh Thành C tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ 31/12/2020; Phạt bổ sung số tiền 50.000.000đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến tang vật, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 14/01/2022, bị cáo Trịnh Thành C làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Mức án sơ thẩm quá nặng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin giảm nhẹ mức án.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng, mức án sơ thẩm quá nặng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, xin được xem xét giảm án cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn có 2 con còn nhỏ không ai chăm sóc, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thật thà khai báo, ăn năn hối hận, mức án sơ thẩm xét xử bị cáo tù không có thời hạn là quá nặng cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ mức án, tạo điều kiện cho bị cáo làm lại cuộc đời trở thành người dân lương thiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là đúng quy định của pháp luật, hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo đã thực hiện mua bán trái phép ma túy với số lượng lớn, là nguyên nhân gây ra nhiều tác hại xấu cho xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo với mức án nêu trên là có căn cứ, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Trịnh Thành C làm trong hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.

[2] Về nội dung giải quyết kháng cáo:

Bị cáo Trịnh Thành C là người thường xuyên sử dụng ma túy, do không có tiền mua ma túy sử dụng nên đầu tháng 09/2020 C đã mua bán ma túy để kiếm lời, C mua ma túy của những người không rõ lai lịch trong đó có 1 người tên gọi là S sau đó bán lẻ lại cho Trần Nguyễn Bảo A1 và những người không rõ lai lịch khác.

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 31/12/2020 trong lúc C đang điều khiển xe máy mang ma túy đi bán thì bị công an bắt quả tang ở trước cửa nhà MB62 đường Nguyễn Thị Kiểu, phường Hiệp Thành, Quận 12, lúc này có Lê Thị Kim Tr là bạn gái của C đi cùng, nhưng Tr không biết C mua bán ma túy.

Lực lượng công an đã thu giữ của C 9,8567g ma túy loại Methamphetamine.

Sau đó, Cơ quan công an đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo C tại số 561/17 Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp thu giữ được trong phòng của C nhiều loại ma túy khác nhau và một số dụng cụ để phân chia và sử dụng ma túy, tổng số lượng ma túy khi bắt quả tang và khám xét chỗ ở của C là 524,6985g Methamphetamine, 4,4685g Ketamine, 2,0420g Heroin.

Theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự, quy định “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên.

b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng 100 gam trở lên.

c) Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng 75 kilôgam trở lên.

d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên. đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên.

e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên. g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên.

h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”.

Đối chiếu với trường hợp của bị cáo C thì thấy, bị cáo phạm tội đối với số lượng ma túy rất lớn bao gồm nhiều loại chất ma túy như: 524,6985g Methamphetamine; 4,4685g Ketamine; 2,0420g Heroin, nên hành vi trên là đặc biệt nguy hiểm và nghiêm trọng, bị cáo có hành vi mua bán ma túy nhiều lần. Trong quá trình điều tra thì bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận, chưa có tiền án tiền sự, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, 2 con còn nhỏ. Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định tại Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng Hình sự để tuyên phạt bị cáo mức án tù chung thân là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin được xem xét giảm án nhưng cũng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, do đó không có cơ sở để chấp nhận.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, nên bị cáo C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

[4] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355 Bộ Luật tố tụng Hình sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trịnh Thành C. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên xử:

1/ Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm a khoản b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trịnh Thành C, tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ 31/12/2020; Phạt bổ sung số tiền 50.000.000đồng.

2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải nộp số tiền 200.000đồng.

3/ Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

4/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 264/2022/HS-PT

Số hiệu:264/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về