TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HN
BẢN ÁN 26/2021/HS-PT NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13/01/2021 tại trụ sở Tòa án, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 762/2020/TLPT – HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Xuân C do có kháng cáo của bị cáo.
Đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 291/2020/HS-ST ngày 10 tháng 09 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận ĐĐ, thành phố HN.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 821/2020/QĐXXPT - HS ngày 15 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Bị cáo Nguyễn Xuân C, sinh năm 1982; Giới tính: Nam;
ĐKHKTT: Tập thể đại tu ô tô số 1, phường HL, quận HM, thành phố HN; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Con ông: Nguyễn Xuân C1, sinh năm 1952; Con bà: Trần Thị T1, sinh năm 1952; Vợ: Nguyễn Thị Thủy, sinh năm 1982 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2005.
Tiền sự: Không.
Tiền án: Bản án số 213 ngày 27/7/2017, Tòa án nhân dân quận HBT, HN xử 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 02/9/2018 (chưa được xóa án tích).
Nhân thân:
- Bản án số 108 ngày 24/12/2004, Tòa án nhân dân huyện TTrxử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (đã được xóa án tích).
- Bản án số 188 ngày 27/12/2006, Tòa án nhân dân huyện TTrxử phạt 36 tháng tù về tội Môi giới mại dâm. Tổng hợp với Bản án số 108 ngày 24/12/2004 buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 54 tháng tù (đã được xóa án tích).
- Bản án số 126 ngày 12/4/2016, Tòa án nhân dân quận ĐĐ xử miễn trách nhiệm hình sự đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Danh chỉ bản số 0436, lập ngày 18/7/2019 tại Công an quận ĐĐ. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 16/7/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố HN. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đỗ Văn M- Văn phòng luật sư Đỗ M, Đoàn luật sư thành phố HN. Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1- Ngân hàng TMCP ĐC;
Trụ sở: Số 22 NQ, phường T3, quận HK, thành phố HN. Đơn xin xét xử vắng mặt.
2- Ông Nguyễn Xuân C1, sinh năm 1952;
ĐKHKTT: Khu tập thể đại tu ô tô số 1, tổ 17, phường HL, quận HM, HN. Có mặt tại phiên tòa.
3- Anh Nguyễn Thái H3, sinh năm 1992;
ĐKHKTT: Xóm Tân Hải, xã QB, huyện QL, tỉnh NA. Vắng mặt
4- Chị Kim Thị Kiều D, sinh năm 1995;
ĐKHKTT: Đội 6, xã NH, huyện TTr, thành phố HN. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01giờ ngày 16/7/2019, Tổ công tác Đội 2, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an thành phố HN phát hiện Nguyễn Xuân C đi từ trong ngõ Toàn Thắng, quận ĐĐ, HN đến gần vị trí xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30E- 777.65 đang đỗ trước số nhà 222 phố Khâm Thiên, phường Khâm Thiên, quận ĐĐ, HN có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu C cùng Nguyễn Thái H3 (khi đó Hưng đang ngồi trong xe ô tô) về Công an phường Thổ Quan để làm việc. Qua kiểm tra xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30E-777.65, Cơ quan công an đã thu giữ dưới lót để chân phía ghế lái có 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 10x15cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ C khai nhận đây là túi ma túy Ketamine C mua của đối tượng Thắng để bán lại cho đối tượng Cu nhằm kiếm lời.
Ngoài ra Cơ quan công an còn tạm giữ của C 01 ví da màu nâu, 01 thẻ căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ngân hàng TPBank, 01 thẻ ngân hàng Agribank đều mang tên Nguyễn Xuân C; 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 điện thoại Nokia màu đồng, 01 điện thoại Iphone màu vàng đen, 01 đồng hồ Apple Watch màu đen, 01 xe ôtô nhãn hiệu Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F-777.65 (SK: RN2KF5326KM009121, SM: PY30958443) và 15.000.000 đồng. Cơ quan công an tạm giữ của Hưng 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu trắng vàng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HN tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của C tại thôn Lạc Thị, xã NH, huyện TTr, HN. Tại thời điểm khám xét trong nhà có Kim Thị Kiều D, Phạm Văn Kiên (Sinh năm 1982, HKTT: Thôn Việt Yên, xã Ngũ Hiệp, huyện TTr, HN) và Nguyễn Thị Liên (Sinh năm 1993, HKTT: Thôn Thọ Am, xã Liên Ninh, huyện TTr, HN). Cơ quan Công an tạm giữ 02 túi nilon màu trắng kích thước 10x7cm đã qua sử dụng, 01 túi nilon màu trắng kích thước 15x10cm đã qua sử dụng, 50 túi nilon màu trắng kích thước 3x3cm chưa qua sử dụng, 30 túi nilon màu trắng kích thước 5x3cm chưa qua sử dụng, 30 túi nilon màu trắng kích thước 10x7cm chưa qua sử dụng, 01 đĩa sứ màu trắng đường kính 30cm trên mặt đĩa có dính tinh thể màu trắng, 01 quyển vở kẻ ngang có bìa màu xanh, 01 máy tính bảng màu trắng, 01 đầu thu camera, 01 điện thoại Iphone màu hồng, 01 chứng minh thư và 01 sổ hộ chiếu đều mang tên Nguyễn Thái H3.
Ngày 16/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận ĐĐ đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 585 đối với tang vật đã thu giữ.
Tại Bản kết luận giám định số: 4629/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố HN kết luận:
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 94,810 gam (Thu giữ trong xe ô tô).
- 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 30cm có dính ma túy loại Ketamine (Thu giữ tại nhà C).
- 02 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (7x10)cm đều có dính ma túy loại Methamphetamine (Thu giữ tại nhà C).
- 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (10x15)cm có dính ma túy loại MDMA (Thu giữ tại nhà C).
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Xuân C khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 15/7/2019 C gọi điện thoại cho Thắng (là bạn xã hội) để hỏi mua 70.000.000 đồng ma túy loại Ketamine về để sử dụng thì Thắng đồng ý và hẹn C ra địa chỉ số 420 Xã Đàn, quận ĐĐ, HN để giao dịch. C liền điều khiển xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F-777.65 chở Nguyễn Thái H3 đi đến Xã Đàn gặp Thắng. Khi đến nơi, C gọi điện thoại cho Thắng thì Thắng đi bộ ra và lên ghế phụ của xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F- 777.65 và bảo Hưng xuống hàng ghế sau ngồi. Tại đây, C đưa Thắng 70.000.000 đồng, Thắng giao ma túy cho C rồi xuống xe, C cầm ma túy cất xuống sàn xe ô tô vị trí ghế lái rồi C tiếp tục điều khiển xe ô tô đi đến nhà bạn ở ngõ Toàn Thắng chơi. C đi vào nhà bạn chơi còn Hưng ngồi ở xe đợi, khi C đi từ nhà bạn ra đầu ngõ Toàn Thắng ra thì bị Cơ quan công an kiểm tra bắt giữ. C khai mục đích mua ma túy về để sử dụng cho bản thân, không thừa nhận việc mua ma túy về để bán như đã khai tại thời điểm bị bắt giữ. Sau đó, C tiếp tục thay đổi lời khai, C không thừa nhận số ma túy Cơ quan công an thu giữ trong chiếc xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F- 777.65 là của C.
Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận ĐĐ đã tiến hành giám định dấu vết đường vân trên túi nilon thu giữ trong xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F- 777.65. Tại bản Kết luận giám định số 7539/C09-P3 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Trên 01 túi nilon màu trắng gửi giám định phát hiện thấy một số dấu vết đường vân. Các dấu vết này mờ nhòe, không đủ yếu tố giám định.
Đối với Nguyễn Thái H3 là người ngồi trong xe ô tô khi C bị bắt giữ, tại Cơ quan công an Hưng khai không biết việc C mua bán ma túy và không biết có ma túy ở trong xe, tuy nhiên Hưng có sử dụng ma túy, xét nghiệm ma túy kết quả dương tính do đó Cơ quan công an đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Hưng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với Kim Thị Kiều D là người có mặt tại nhà C khi Cơ quan điều tra thi hành lệnh khám xét khẩn cấp, tại Cơ quan công an D khai nhận: D có quan hệ tình cảm với C và chung sống với nhau như vợ chồng tại thôn Lạc Thị, xã NH, huyện TTr, thành phố HN từ tháng 6/2019. Trong quá trình sinh sống D đã 04 lần đưa ma túy cho khách giúp C tuy nhiên D không rõ việc C bán ma túy cho khách như thế nào. Do không xác định được người D đã giao ma túy cũng như khối lượng ma túy D đã giao, mặt khác Cơ quan điều tra cho D và C đối chất, C khai nhận chỉ nhờ D đưa thuốc không phải là ma túy cho bạn của C vì vậy chưa đủ căn cứ xử lý hình sự đối với D. Tuy nhiên D có sử dụng ma túy, xét nghiệm ma túy kết quả dương tính do đó Cơ quan công an đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với D về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với Phạm Văn Kiên và Nguyễn Thị Liên là người có mặt tại nhà C khi Cơ quan điều tra thi hành lệnh khám xét khẩn cấp, tại Cơ quan công an Kiên và Liên khai nhận: Kiên và Liên là bạn xã hội với C. Việc C mua bán trái phép chất ma túy Kiên và Liên không biết và không liên quan. Tối ngày 15/7/2019 Kiên và Liên có đến nhà C chơi. Kiên và Liên có sử dụng ma túy nên Cơ quan công an ra quyết định xử phạt hành chính đối với Kiên và Liên về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với đối tượng Cu là người liên quan đến việc mua bán trái phép ma túy của C, tại Cơ quan điều tra C khai không biết tên tuổi, địa chỉ nhà ở đâu chỉ biết Cu sử dụng số điện thoại có đuôi là 63. Qua kiểm tra điện thoại của C xác định có số 0969639963. Cơ quan điều tra xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Bùi Đại Dương (Sinh năm 1993, HKTT: Tổ 26, phường Phố Mới, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai). Tại Cơ quan điều tra, Dương khai nhận thông qua bạn của Dương là Lê Văn Két (Dương không biết Két làm gì, nhà ở đâu) nên có biết C. Bản thân Dương và Két đã 02 lần mua ma túy của C ở khu vực hồ Linh Đàm và khu vực TTrvà đã sử dụng hết số ma túy mua được (Dương không nhớ chính xác được vị trí mua và vị trí sử dụng ma túy).
Dương từ chối đối chất với Nguyễn Xuân C. Xét nghiệm ma túy Dương có kết quả âm tính do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với Thắng là đối tượng bán ma túy cho C, tại Cơ quan điều tra C khai không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ nhà ở đâu. Chỉ biết Thắng sử dụng số điện thoại có đuôi là 18. Qua kiểm tra điện thoại của C xác định có số 0984686118. Qua xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp- Viễn thông Quân đội xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Vũ Thanh Xuân (Sinh năm 1982, HKTT: Số 3 tổ 10 Xa La, phường Phúc La, quận Hà Đông, HN). Qua xác minh tại Công an phường Phúc La xác định tại địa chỉ trên không có người nào tên là Vũ Thanh Xuân do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.
Qua kiểm tra điện thoại của C xác định các số điện thoại 0985675880, 0862348388, 0386377282, 0333434936, 0982222251, 0975155986, 0971253307, 0965187598, 0838830770, 0945067207, 0843155115 có liên quan đến việc C mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với số điện thoại 0985675880 có nội dung tin nhắn đến máy của C “em có để hay lấy giúp anh 10c kẹo và bao nhiêu 1v”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Nguyễn Văn Xuân (Sinh năm 1990, HKTT: Xã Hải Chính, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định). Tại Cơ quan điều tra, anh Xuân khai không đi đăng ký và không sử dụng số thuê bao trên do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0862348388 có nội dung tin nhắn đến máy của C là “anh ơi đồ này với đồ anh bờm Thuận là một à anh”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Nguyễn Văn Thành (Sinh năm 1999, HKTT: Xã Giao Lạc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định). Tại Cơ quan điều tra, Thành khai Thành không còn sử dụng số điện thoại này từ tháng 2/2019 và không biết ai đang sử dụng do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0386377282 có nội dung tin nhắn đến máy của C “lấy cho chị một hộp 5 nhé e”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Công ty TNHH Thương mại và truyền thông Bình An có địa chỉ tại: Số 3 ngách 33 ngõ 71 phố Tân Ấp, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, HN. Qua xác minh tại Công an phường Phúc Xá xác định không có Công ty nào có tên như trên tại địa bàn, do đó Cơ quan điều tra không làm rõ để xử lý được.
Đối với hai số điện thoại 0333434936 và 0838830770 có nội dung tin nhắn đến máy của C “a ơi lúc nãy a đưa nước cho em thừa à”, “a ơi xem cấp cứu e phát. Nhà hết sạch không còn tý nào. Khách đợi từ tối a ạ”, “A ơi nha còn loại LV không ạ”, qua xác minh xác định chủ đăng ký 02 số thuê bao trên là Phạm Thế Anh (Sinh năm 1994, HKTT: Số 39 ngõ 30 Hồng Mai, phường Bạch Mai, quận HBT, HN). Tại Cơ quan điều tra Thế Anh khai không đi đăng ký và không sử dụng 02 số điện thoại trên, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0982222251 có nội dung tin nhắn đến máy của C “đồ này cũng ok đấy a ơi”, “ma túy mệt! ở nhà ngủ cho lành”, “em đi làm về hơi mệt chắc k chơi được. A thông cảm. E nghỉ ngơi đây”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Nguyễn Thị Chuyên (Sinh năm 1973, HKTT: TDP Trung 5, Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, HN). Tại Cơ quan điều tra chị Chuyên khai không còn sử dụng số điện thoại này từ tháng 06/2018 và không biết ai đang sử dụng, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0975155986 có nội dung tin nhắn đến máy của C “A nt giá cho e với nhé”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Triệu Thị Đường (Sinh năm 1977, HKTT: Xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái). Tại Cơ quan điều tra chị Đường khai không đi đăng ký và không sử dụng số thuê bao trên, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0971253307 có nội dung tin nhắn đến máy của C “mày bảo anh có hay không mà về chưa hay ntn chứ lấy đồ mà lần nào cũng chờ đợi bốn năm tiếng thì khách nào đợi được mà gọi thì không nghe may hay mày không muốn làm với tao thì nói thẳng ra tao biết kiểu này tao không thích đâu”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Phạm Thị Phấn (Sinh năm 1952, HKTT: Số 14 Tương Mai, quận HM, HN). Tại Cơ quan điều tra bà Phấn khai không đi đăng ký và không sử dụng số thuê bao trên, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0965187598 có nội dung tin nhắn đến máy của C “e gọi lấy luôn đi khách chờ lâu quá lần nào cũng thế”, “e bảo ai cầm cho a 1tr kem cho K nó thử cả nửa hộp nước”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Bùi Thị Thanh Trúc (Sinh năm 1997, HKTT: Thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Tại Cơ quan điều tra chị Trúc khai không đi đăng ký và không sử dụng số thuế bao trên, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0945067207 có nội dung tin nhắn tới máy của C “anh ơi cái này lấy 100 thì giá 20 a ạ” “e ơi thiếu 1”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Phạm Thị Vui (Sinh năm 1968, HKTT: Xã Giao Nhân, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định). Tại Cơ quan điều tra bà Vui khai không đi đăng ký và không sử dụng số thuê bao trên, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.
Đối với số điện thoại 0843155115 có nội dung tin nhắn đến máy của C “e lấy cho c 2 chỉ Ke nhé. C gửi e tiền”, qua xác minh xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là Trần Ngọc Nam (Sinh năm 1971, địa chỉ thanh toán: Số 211B Tân Mai, quận HM, HN). Qua xác minh tại Công an phường Tân Mai xác định Nam có HKTT tại:
489D5 phường Tân Mai, quận HM, HN nhưng hiện Nam không còn sinh sống tại địa chỉ trên, không xác định được nơi ở hiện tại của Nam, do đó Cơ quan điều tra tiếp tục tách rút phần tài liệu hồ sơ liên quan đến chủ sở hữu số điện thoại 0843155115 để điều tra, xử lý sau.
Bản cáo trạng số 233/CT-VKSĐĐ, ngày 18/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận ĐĐ đã truy tố Nguyễn Xuân C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 291/2020/HS-ST ngày 10 tháng 09 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận ĐĐ, thành phố HN đã xử bị cáo Nguyễn Xuân C 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/7/2019 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 251 BLHS.
Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý tang vật, án phí và quyền kháng cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận só ma túy cơ quan điều tra thu giữ trên xe là do bị cáo mua của đối tượng tên Thắng, tuy nhiên chỉ thừa nhận mua về sử dụng quá trình điều tra bị ép cung.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đề nghị hội dồng xét xử xem xét cơ quan điều tra có nhiều sai phạm, việc bắt quả tang bị cáo mua bán trái phép chất ma túy là không phù hợp thực tế vụ án. Khi bắt bị cáo không khám xét ngay mà đưa về trụ sở buộc bị cáo ngồi ghế sau thì việc bị cáo khai bị ép cung và hoang mang nên lời khai ban đầu là không phù hợp. Trong các bản cung bị cáo đều khai mua ma túy về sử dụng chứ không để bán. Việc khám xét nơi ở cảu bị cáo nhưng không cho bị cáo chứng kiến là vi phạm tố tụng. Việc kết tội bị cáo chỉ thông qua loiwd khai của một số nhân chứng gián tiếp là không khách quan và cảm tính. Cần xác định bị cáo đã khai đầy đủ hành vi của mình là thành khẩn không chối tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, gia đình có người có công với cách mạng để cho bị cáo mức án thích hợp khoan hồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HN phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của Nguyễn Xuân C nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như nội dung bản án sơ thẩm đã xử, nhưng chỉ thừa nhận mua ma túy về sử dụng. Không có căn cứ bi cáo bị ép cung như bị cáo khai. Căn cứ kết quả tại phiên tòa hôm nay phù hợp các nội dung của bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo nhận tội, Tòa án sơ thẩm đã xử các bị cáo tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 251 BLHS là đúng. Tuy nhiên xét tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai báo thành đầy đủ hành vi phạm tội, gia đình có người có công với cách mạng nên áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự chấp nhận kháng cáo xử bị cáo từ 12 năm 06 tháng đến 12 năm 09 tháng tù. Các quyết định khác không cso kháng cáo kháng nghị được giữ nguyên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hình thức:
Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Xuân C nộp trong thời hạn luật định nên hợp lệ, được xem xét, giải quyết kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung: lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:
C quen biết Thắng, Thắng giới thiệu có nguồn mua ma túy, nếu cần thì điện thoại cho Thắng. C quen biết Cu, Cu nhiều lần rủ C góp tiền mua ma túy về sử dụng. Khoảng 20 giờ ngày 15/7/2019 C điện thoại đặt mua của Thắng 01 lạng ketamin (Thắng báo giá 70.000.000 đồng) với mục đích mang về để chia bán lại một phần cho Cu, nhưng chưa kịp bán đã bị bắt. Sau đó, C thay đổi lời khai, C khai mục đích mua ma túy về để sử dụng cho bản thân, không thừa nhận việc mua ma túy về để bán như đã khai tại thời điểm bị bắt giữ. Ngày 24/7/2019, C tiếp tục thay đổi lời khai, C không thừa nhận số ma túy Cơ quan công an thu giữ trong chiếc xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F- 777.65 là của C.
Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Xuân C khai không thống nhất, các lời khai mâu thuẫn nhau.
- Bị cáo khai mua số lượng lớn ma túy ketamin về để sử dụng nhưng cũng khai không thống nhất về số lượng ma túy dùng mỗi lần: bút lục 117 bị cáo khai 1 tuần chơi vài lần mỗi lần nửa chỉ; bút lục 123 bị cáo khai mỗi ngày sử dụng hết 3 chỉ ketamin, mỗi chỉ 4 triệu đồng, vậy mỗi ngày bị cáo sử dụng hết 12 triệu đồng ma túy; bút lục 129 bị cáo khai mỗi ngày sử dụng 3-4 lần, mỗi lần dùng 3 chỉ, mỗi chỉ là 2 gam; bút lục 137 khai dùng ke mỗi ngày có thể đến 2 chỉ; bút lục 139 khai 1 tuần chơi vài lần, mỗi lần nửa chỉ ke. Bị cáo khai không làm nghề gì cố định (bút lục 129), không nghề nghiệp nên không có khả năng mua xe hay trả tiền xe (bút lục 133), lời khai này phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Xuân C1 tại phiên tòa về nghề nghiệp, thu nhập của bị cáo. Vì vậy lời khai của bị cáo sử dụng ma túy hàng ngày với số tiền nhiều như trên không phù hợp với thực tế thu nhập của bị cáo.
- Về mối quan hệ với Kim Thị Kiều D, bị cáo cũng khai không thống nhất, bút lục 127 khai ở với D được khoảng 2 tuần; bút lục 129 bị cáo khai ở một mình, không ở với D; bút lục 133,139 bị cáo khai D là bạn gái sống như vợ chồng. Nhưng Kim Thị Kiều D khai sống với C như vợ chồng, lời khai của D phù hợp với lời khai của Nguyễn Thái H3, Phạm Văn Kiên, Nguyễn Thị Liên nên có cơ sở khẳng định bị cáo C sống cùng nhà với D. D khai thấy bị cáo gặp gỡ trao đổi mua bán ma túy với các đối tượng nam thanh niên, khi mua được ma túy thì bị cáo mang về nhà cất giấu (bút lục 323, 339); D khai khi bị cáo không có nhà đã điện thoại nhờ D lấy ma túy ở trong hộp sắt trong tủ gần ti vi đưa cho khách khoảng 3,4 lần, ma túy là ke và thuốc lắc (bút lục 149, 336).
- Bị cáo C khai liên lạc với Cu qua số điện thoại có đuôi 63, điều này phù hợp với lời khai của Bùi Đại Dương (bút lục 282,283,284), Dương khai Két và Dương liên lạc mua ma túy của C hai lần bằng số điện thoại 0969639963 của Dương. Biên bản kiểm tra điện thoại thể hiện lúc 3 giờ 5’,10 giờ 18’ ngày 15/7/2019, bị cáo C dùng số điện thoại 0356176907 gọi cho số điện thoại 0969639963 của Dương, trước đó từ 02 giờ 05’ đến 02 giờ 29’ ngày 10/7/2019 bị cáo C và Dương cũng điện thoại (5 cuộc gọi) bằng số máy 0902034778 và 0356176907 của C đến số 0969639963 của Dương. Dương đã mô tả địa điểm mua ma túy của C cùng đặc điểm cá nhân, mô tả chiếc xe ô tô mà C sử dụng phù hợp với đặc điểm nhận dạng của C và nhận dạng được C (bút lục 289).
- Các tin nhắn thu giữ được trong điện thoại của bị cáo C thể hiện bị cáo có hoạt động mua bán trái phép chất ma túy: số điện thoại 0985675880 nhắn đến máy của C “em có để hay lấy giúp anh 10c kẹo và bao nhiêu 1v”. Số điện thoại 0862348388 nhắn đến máy của C là “anh ơi đồ này với đồ anh bờm Thuận là một à anh”. Số điện thoại 0386377282 nhắn đến máy của C “lấy cho chị một hộp 5 nhé e”. Số điện thoại 0333434936 và 0838830770 nhắn đến máy của C “a ơi lúc nãy a đưa nước cho em thừa à”, “a ơi xem cấp cứu e phát. Nhà hết sạch không còn tý nào. Khách đợi từ tối a ạ”, “A ơi nha còn loại LV không ạ”. Số điện thoại 0982222251 nhắn đến máy của C “đồ này cũng ok đấy a ơi”, “ma túy mệt! ở nhà ngủ cho lành”, “em đi làm về hơi mệt chắc k chơi được. A thông cảm. E nghỉ ngơi đây”. Số điện thoại 0975155986 nhắn đến máy của C “A nt giá cho e với nhé”. Số điện thoại 0971253307 nhắn đến máy của C “mày bảo anh có hay không mà về chưa hay ntn chứ lấy đồ mà lần nào cũng chờ đợi bốn năm tiếng thì khách nào đợi được mà gọi thì không nghe may hay mày không muốn làm với tao thì nói thẳng ra tao biết kiểu này tao không thích đâu”. Số điện thoại 0965187598 nhắn đến máy của C “e gọi lấy luôn đi khách chờ lâu quá lần nào cũng thế”, “e bảo ai cầm cho a 1tr kem cho K nó thử cả nửa hộp nước”. Số điện thoại 0945067207 nhắn với máy của C “anh ơi cái này lấy 100 thì giá 20 a ạ” “e ơi thiếu 1”. Số điện thoại 0843155115 nhắn đến máy của C “e lấy cho c 2 chỉ Ke nhé. C gửi e tiền”.
Bị cáo khai lúc mới bị bắt bị đánh, ép cung nên đã khai nhận là mua ma túy về để bán, sau đó vẫn bị đánh, ép cung nên đã khai nhận là mua ma túy, tàng trữ để sử dụng, nhưng bị cáo không đưa ra được chứng cứ chứng minh mình bị đánh, ép cung. Bị cáo không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy, không thừa nhận số ma túy bị thu giữ là của bị cáo nhưng căn cứ vào lời khai ban đầu của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai ban đầu của người làm chứng ông Đặng Văn Chiến, Nguyễn Thái H3 (bút lục 36,37,38), lời khai của Bùi Đại Dương, bản ảnh nhận dạng của Bùi Đại Dương (bút lục 282,283,284, 289), lời khai của Kim Thị Kiều D tại biên bản đối chất, bản tự khai, biên bản ghi lời khai (bút lục 148, 149,150,151,336,339,340,343,344), biên bản kiểm tra điện thoại (bút lục 153-160), vật chứng thu giữ tại nhà Nguyễn Xuân C (bút lục 347); phù hợp với lời khai của Kim Thị Kiều D, Phạm Văn Kiên, Nguyễn Thị Liên, Bùi Đại Dương, Nguyễn Thái H3 có đủ cơ sở kết luận toàn bộ số ma túy thu giữ trong xe ô tô Mazda CX5 màu trắng BKS: 30F- 777.65 là của C mua để bán trái phép.
Lời khai của các nhan chứng này tuy không phải là nhân chứng trực tiếp nhưng lười khai của họ cho thấy lười khai ban đầu của bị cáo là mua ma túy về bán là có cơ sở.
Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân C đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, khối lượng ma túy bị thu giữ là 94,810 gam ma túy loại Ketamine nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự như bản án sơ thẩm xác định là hoàn toàn phù hợp.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các chất ma túy có tác dụng kích thích mạnh cơ quan thần kinh trung ương của người sử dụng, dễ khiến con người rơi vào tình trạng khó kiểm soát hành vi với các dạng bị kích động mạnh hoặc ảo giác, hoang tưởng; ma túy còn gây tác hại đến sức khỏe người sử dụng và là nguồn cơn của nhiều loại tội phạm như giết người, cố ý gây thương tích, cướp tài sản…gây hoang mang, phẫn nộ trong quần chúng nhân. Hành vi của bị cáo xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà Nước về quản lý ma túy. Khối lượng các bị cáo mua bán 94,810 gam ma túy loại Ketamine là rất lớn và nguy hiểm cho xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 03 tiền án (đã được xóa án tích), 01 tiền án (chưa được xóa án tích) về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, như vậy lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nên phải áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị tuy không nhận mua ma túy về để bán là do nhận thức pháp luật của bị cáo nhưng đã khai đầy đủ các tình tiết vụ án như bản án sơ thẩm đã nêu vẫn được xem là thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ, gia đình bịc áo có thân nhân là người có công với cách mạng nên có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và tình tiết tăng nặng tái phạm theo điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự là hoàn toàn phù hợp do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo mức hình phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung là phù hợp. Tuy nhiên mức án như Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giảm 1 phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện, không nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Bởi các phân tích trên, hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Xuân C và giảm một phần hình phạt cho bị cáo; do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự .
Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Xử:
I./ Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Xuân C
II./ Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 291/2020/HS-ST ngày 10 tháng 09 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận ĐĐ, thành phố HN;
Tuyên bố: Nguyễn Xuân C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
Áp dụng: điểm n khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân C 12 năm 03 tháng tù (mười hai năm ba tháng). Thời hạn tù tính từ ngày 16/7/2019.
III. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
IV. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án là ngày 13/01/2021
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 26/2021/HS-PT
Số hiệu: | 26/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về