Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 261/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 261/2022/HS-PT NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 216/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Bùi Đức L và đồng phạm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” , “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1854/2022/QĐXXPT-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Bùi Đức L, sinh năm 1990; tại tỉnh H Tĩnh; nơi cư trú: Thôn 4, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Bùi Đức L (chết) và bà Lê Thị X; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 30/01/2013 bị TAND huyện E, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 07/HSST. Ngày 07/5/2014 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/01/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Ông Nguyễn Đức V - Luật sư Văn phòng Luật sư B - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

2. Nguyễn Như N, sinh năm 1988; tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Như T và bà Nguyễn Thị V; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/01/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Ông Nguyễn Đình H - Luật sư Văn phòng Luật sư T - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Văn C quen biết Nguyễn Quang H, Nguyễn Đình V, Nguyễn Như N. H quen biết Bùi Đức L, Nguyễn Đình V. Các đối tượng này đều nghiện ma túy (trừ V). Đầu tháng 01/2021 một người đàn ông tên Bi gọi điện thoại nhờ L mua 01kg ma túy đá. L gọi điện thoại cho H, H gọi điện thoại cho C để hỏi mua ma túy đá, các bên thống nhất bán 400 gam ma túy đá, giá 140.000.000 đồng, hẹn giao hàng tại thành phố B. Cùng thời điểm C nhận được điện thoại của N hỏi mua ma túy đá, hai bên thống nhất bán 90 gam ma túy đá, giá 30.000.000 đồng, hẹn giao hàng tại thành phố B. Để có ma túy bán cho L và N, C hỏi mua của 01 người đàn ông tên H, H hứa trả công 15.000.000 đồng cho C nếu bán được ma túy. Sáng ngày 23/01/2021 H đến nhà giao cho C 01 túi nylon màu đen, bên trong được bọc nhiều lớp túi nylon màu trắng, màu vàng, trong túi nylon màu vàng, trong cùng chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng và 01 túi nylon màu trắng chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (dùng để thử ma túy), khối lượng khoảng 530 gam. C gọi điện thoại cho H, H đến nhà C lấy ma túy đi bán và c hứa trả công 10.000.000 đồng cho H nếu bán được ma túy. H gọi điện thoại rủ Nguyễn Đình V cùng đi bán ma túy tại TP.B. V mang theo túi nylon màu đen chứa ma túy đá, đón xe khách đến TP.B trước, H thuê xe taxi lên sau. Khoảng 01 giờ ngày 24/01/2021 V đến TP.B, liên lạc với N và giao 90 gam ma túy đá cho N tại Nhà nghỉ P (phòng 303), địa chỉ số 10 đường Phạm Hùng, thành phố B. Khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, H đi xe taxi biển số 61A-532.50 (do anh Bạch Sỹ T và anh Lê Khánh S điều khiển) đến TP.B, gọi điện thoại cho L và gặp L tại Nhà nghỉ X, địa chỉ số 140/01 đường G, thành phố B. H thuê phòng 209 để nghỉ. H gọi điện thoại cho V mang ma túy đến cho H để bán cho L. Khoảng 02 giờ cùng ngày V mang ma túy đá đến cho H, H mang lên phòng 209, H lấy ra một ít ma túy đá bọc vào túi nylong mang theo người, còn lại cất giấu ở chân giường. H sang phòng 208 của L thuê, H đưa ma túy vào dụng cụ rồi cùng L và H sử dụng. Tại phòng 208, H phân số ma túy còn lại mà c đưa để thử hàng ra làm 02 phần, H giữ 01 phần và cho L01 phần. Trong lúc chờ Bi đến để giao ma túy thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đắk Lắk bắt quả tang, thu giữ tại phòng 208 một gói ma túy tại góc chân tường (của L) và 01 gói ma túy tại bồn rửa mặt (của H); thu giữ tại phòng 209 một gói ma túy (của H). Khám xét phòng nghỉ của N thu giữ 01 gói ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 146/GĐMT-PC09 ngày 30/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: 01 gói nylon màu trắng (tại góc chân tường phòng 208, ký hiệu M1) là ma túy, khối lượng 0,9754 gam, loại Methamphetamin; 01 gói nylon màu trắng (tại bồn rửa mặt phòng 208, ký hiệu M2) là ma túy, khối lượng 3,9183 gam, loại Methamphetamin; 01 gói nylon màu trắng (tại phòng 209, ký hiệu M3) là ma túy, khối lượng 193,3950 gam, loại Methamphetamin; 01 gói nylon màu trắng (tại Nhà nghỉ P, ký hiệu M4) là ma túy, khối lượng 89,5048 gam, loại Methamphetamin. Tổng khối lượng 287,7935 gam.

Phiếu kết quả xét nghiệm của Bệnh viện Đa khoa thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngày 24/01/2021 thể hiện: Nguyễn Quang H dương tính với MOP và Methamphetamin; Bùi Đức L dương tính với AMP và Methamphetamin; Phạm Trần Minh H dương tính với Methamphetamin.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Đức L phạm các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp cho cả 02 tội là 22 (Hai mươi hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2021.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 17 (Mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính ngày 24/01/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 5/5/2022, bị cáo Nguyễn Như N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 6/5/2022 bị cáo Bùi Đức L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 12/6/2022 bị cáo L có đơn xin rút đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Như N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị xét xử vắng mặt người bào chữa; bị Cáo Bùi Đức L rút kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Bùi Đức L; Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo N 17 năm tù, về tội mua bán trái phép chất ma túy là đúng pháp luật; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không có tình tiết mới, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Tại Đơn đề nghị xét xử vắng mặt người bào chữa cho rằng, bị cáo chưa tiếp xúc với Luật sư bào chữa nên chưa biết được bị cáo có tình tiết mới gì, đề nghị xem xét và xét xử vắng mặt.

Bị cáo đề nghị xin giảm án tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[ 1 ]. Tại phiên tòa bị cáo Bùi Đức L xin rút kháng cáo; do đó căn cứ vào quy định tại Điều 348 BLTTHS đình chỉ xét xử phúc thẩm, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Bùi Đức L.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như N, thấy:

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định: Đầu tháng 01/2021, Cao Văn C thỏa thuận bán cho Nguyễn Như N 90 gam ma túy đá và thông qua Nguyễn Quang H bán cho cho Bùi Đức L 400 gam ma túy đá, hẹn thời gian và địa điểm giao hàng tại thành phố B, C trả công cho H và Nguyễn Đình V đi giao ma túy. Đến khoảng 01 giờ ngày 24/01/2021 tại phòng 303 Nhà nghỉ P số 10 thành phố B, V giao 89,3950 gam ma túy, loại Methamphetamin cho N. Khoảng 01 giờ 30 phút tại Nhà nghỉ 555 số 140/01 G, phường Tân Thành, thành phố B, H thuê phòng 209, cất giấu 193,3950 gam ma túy loại Methamphetamin để bán cho Bi, H sang phòng 208 đưa ma túy loại Methamphetamin cùng với L, Phạm Trần Minh H sử dụng; H cho L 0,9754 gam ma túy loại Methamphetamin để sử dụng và H giữ lại 3,9183 gam ma túy loại Methamphetamin để H sử dụng.

Trong lúc chờ Bi đến nhận hàng thì bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk bắt quả tang, thu giữ tổng khối lượng ma túy loại Methamphetamin 287,7935 gam. Tòa án sơ thẩm đã xét xử Nguyễn Nhu N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Nguyễn Như N, thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, không những đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Như N 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ và đứng pháp luật và không nặng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không có tình tiết nào mới; do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N về việc xin giảm nhẹ hình phạt tù, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Bị cáo Bùi Đức L rút kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Nguyễn Như N kháng cáo nhưng không được chấp nhận, do đó phải chịu án phí hình sự và dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Bùi Đức L; Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Bùi Đức L.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như N; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015(Sửa đổi bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Nguyễn Như N 17 (Mười bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2021.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Đức L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Như N phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 261/2022/HS-PT

Số hiệu:261/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về