Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 09/11/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Lường Văn H, sinh 20/6/1987; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Lường Văn B, sinh 1962 và bà Lường Thị D, sinh 1960; có vợ Lò Thị H, sinh 1986 và 02 con, con lớn nhất sinh 2007, con nhỏ nhất sinh 2009; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2023 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lường Ngọc C, là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người làm chứng: Quàng Văn Đ, sinh 1991 và Lò Văn Đ, sinh 1985; nơi cư trú: bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 23/6/2023 Lò Văn Đ (tiếng địa phương gọi là Lò Văn L) gặp Lường Văn H hỏi mua ma tuý, H bảo Đ đi ra đoạn đường khe suối thuộc bản N, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, chờ; H lấy gói ma tuý cất giữ trong người ra chia một phần vào mảnh nilon màu trắng rối mang ra nơi hẹn thì thấy Lò Văn Đ đứng cùng với Quàng Văn Đ (tiếng địa phương gọi là Quàng Văn L), Hoạt nhận 50.000VNĐ và đưa gói ma tuý cho Đ thì bị Tổ công tác huyện M và Công an xã C phát hiện, Lò Văn Đ và Quàng Văn Đ bỏ chạy, còn Lường Văn H bị bắt, thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có cục bột màu trắng và số tiền 150.000VNĐ, H khai nhận chất bột màu trắng trong gói nilon là gói ma tuý và số tiền 150.000VNĐ là do bán ma tuý có được. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 16 giờ 10 phút ngày 23/6/2023 thu giữ, niêm phong vật chứng, dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền.

Lường Văn H khai về nguồn gốc ma tuý có được từ ngày 21/6/2023, Hoạt gặp và mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ về cất giữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời; trước khi bị phát hiện khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23/6/2023, Hoạt đã bán trái phép chất ma tuý cho Quàng Văn Đ lần thứ nhất tại nhà ở được số tiền 100.000VNĐ phù hợp với lời khai của Địch.

Ngày 23/6/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lường Văn H như sau: Cục bột màu trắng trong gói nilon màu trắng có khối lượng: 0,17 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là H. Còn lại: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu trắng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 31/7/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 150.000VNĐ (01 tờ 100.000VNĐ, 01 tờ 50.000VNĐ) thu giữ của Lường Văn H.

Ngày 28/6/2023 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số: 1640/KL-KTHS, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,17 gam; loại Heroine”.

Ngày 31/7/2023 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 1841/KL-KTHS, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.

Tiến hành điều tra đối với Lò Văn Đ và Quàng Văn Đ nhưng không thu giữ được ma tuý; Lò Văn Đ và Quàng Văn Đ có lời khai nhận ngày 23/6/2023, Đ được mua trái phép chất ma tuý của H 01 lần với số tiền 100.000VNĐ, Đ được mua trái phép chất ma tuý của H 01 lần với số tiền 50.000VNĐ thì bị phát hiện nên bỏ chạy, số ma tuý mua được đã sử dụng hết.

Thực hiện xác minh nhân thân của Lò Văn Đ và Quàng Văn Đ, xác định chưa có tiền án, tiền sự, không thu giữ được ma tuý cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Lường Văn H nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của H.

Bản cáo trạng số 110/CT-VKS-ML ngày 20/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lường Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội với mục đích mua ma túy cất giữ để sử dụng và bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Lường Văn H phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lường Văn H từ 07 đến 08 năm tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì, 01 mảnh nilon; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 150.000VNĐ; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo H tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự thú; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật hạn chế; nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, r khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt, không phạt bổ sung với bị cáo; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; miễn tiền án phí cho bị cáo; các nội dung khác nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Người làm chứng vắng mặt, Hội đồng xét xử thấy lời khai có trong hồ sơ đã rõ nên quyết định xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Lường Văn H đã mua trái phép chất ma tuý về cất giấu với mục đích sử dụng và bán lại kiếm lời, thực tế H đã bán trái phép chất ma tuý cho Quàng Văn Đ lần thứ nhất vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 23/6/2023 tại nhà ở của H ở bản N, xã C, huyện M được số tiền 100.000VNĐ và lần thứ hai vào hồi 16 giờ 00 phút ngày 23/6/2023 được số tiền 50.000VNĐ thì bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 1640/KL-KTHS, ngày 28/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,17 gam; loại Heroine”. Như vậy, Lường Văn H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép 0,17 gam chất ma túy để sử dụng cho bản thân và bán trái phép chất ma tuý cho Quàng Văn Đ 01 lần và bán cho Lò Văn Đ 01 lần (giữa các lần mua bán trái phép chất ma tuý với Đ, Đ là độc lập, có khoảng cách về thời gian) để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lường Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: b) Phạm tội 02 lần trở lên”.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giấu, cất giữ trái phép chất ma túy mà còn bán trái phép chất ma túy hai lần; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương mà còn là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt); bị cáo tự thú (đã khai ra hành vi bán trái phép chất ma túy cho Địch vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 23/6/2023). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng ba, nhận thức pháp luật hạn chế, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy) chính quyền địa phương xác định bị cáo không chấp hành quy định của địa phương nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: bị cáo không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 23/6/2023 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Đối với Quàng Văn Đ và Lò Văn Đ là người nghiện, mua trái phép chất ma tuý của Hoạt nhưng không thu giữ được ma tuý với Đh và Đ nên không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Cơ quan chức năng đã áp dụng áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của H nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.

[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,17 gam Heroine không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đang lưu kho vật chứng: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu trắng bị cáo H đã sử dụng làm phương tiện cất giữ trái phép chất ma tuý là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền bị cáo đã bán bán trái phép chất ma túy có được tổng cộng 150.000VNĐ là số tiền do phạm tội mà có nên cần phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lường Văn H 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (23/6/2023); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 mảnh nilon màu trắng của Lường Văn H.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 150.000VNĐ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) của Lường Văn H.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2023 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo H.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/11/2023). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về