Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 222/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 222/2021/HSST NGÀY 16/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh ĐắkLắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 183/2021/HSST ngày 28/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 214/2021/QĐXXST-HS ngày 16/7/2021 và Thông báo V/v dời lịch xét xử số:17/TB-TA ngày 26/7/2021 và thông báo số: 36/TB-TA ngày 09/8/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H; Tên gọi khác: H già; Sinh ngày 10 tháng 02 năm 1964; Tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Số 322/24 đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:03/12; Nghề nghiệp: Tài xế Con ông Nguyễn G và bà Huỳnh Thị S (đều đã chết); Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Kim S. Có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2000.

Tiền án: 01; tiền sự: 0.

Quá trình nhân thân và tiền án:

Ngày 22/3/1986, bị TAND tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại bản án số 15/1986/HSST. Bị cáo đã được xóa án tích.

Ngày 23/12/2008 và 09/3/2009, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột xử sơ thẩm và TAND tỉnh Đắk Lắk xử phúc thẩm kháng cáo, xử phạt 08 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Bản án số 408/2008/HSST và Bản án số 62/2009/HSPT. Bị cáo đã được xóa án tích.

Ngày 14/8/2019, bị TAND huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 35/2019/HSST. Bị cáo đang được hoãn chấp hành hình phạt tù theo Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số 41A/2020/CA ngày 08/10/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 01/3/2021 cho đến nay.

Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị K, sinh năm: 1988 Địa chỉ: Thôn 3, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Anh Huỳnh Viết T, sinh năm: 1984;

Đa chỉ: Thôn 3, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

3. Anh Nguyễn Trường G, sinh năm: 1991 Địa chỉ: 153/88 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ( Vắng mặt)

4. Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1988 (Có mặt) Địa chỉ: 322/24 đường T, Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

5. Ông Trần Xuân Kh, sinh năm: 1972 (Vắng mặt).

Đa chỉ: 17 đường L, Thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm ổn định, để có tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn H đã nảy sinh ý định mua ma túy về bán kiếm lời. Qua mối quan hệ xã hội, H biết một người tên V (không rõ lai lịch) ở khu vực đường vành đai phường T, thành phố B là người bán ma túy loại Heroine. Sáng ngày 28/02/2021, H một mình điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Taurius, biển kiểm soát 47N1-7939 đến gặp V mua 01 gói ma túy với giá 800.000 đồng rồi mang về phòng trọ ở địa chỉ số 201 đường N, phường T, thành phố B phân chia thành 08 gói bọc bằng giấy bạc để bán. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, một người nam giới tên A (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0862.64.63.75 gọi vào số 0942.51.88.47 gắn trên điện thoại hiệu Nokia màu đen của H hỏi mua 300.000 đồng ma túy thì H đồng ý và hẹn giao ma túy ở khu vực đường N, phường T, thành phố B. Sau đó H lấy 02 gói mang giao cho A, 06 gói còn lại H cất giấu tại phòng trọ để bán dần. Khi đến điểm hẹn đợi giao ma túy thì bị Công an phường T, thành phố B bắt quả tang, Th giữ 02 gói giấy bạc bên trong chứa chất rắn dạng cục màu trắng được bọc bằng một nửa tờ vé số đài Đà Nẵng số 239957 ngày 27/02/2021 (ký hiệu M1) đã được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của H thu giữ 01 gói nylon bên trong có 06 gói giấy bạc đều chứa chất rắn dạng bột màu trắng được quấn bằng băng keo đen bên ngoài để trên mặt bàn gỗ bên trái cửa chính ra vào (ký hiệu M2); một nửa tờ vé số Đà Nẵng số 239957 ngày 27/02/2021; 01 cân tiểu ly màu đen; 05 miếng giấy bạc kích thước 5x10cm.

Tại Kết luận giám định số 257/GĐMT- PC09 ngày 08/3/2021 của Phòng Kỹ Thật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Phong bì M1: Chất rắn dạng cục màu trắng đựng trong 02 gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Heroine, có tổng khối lượng 0,1388 gam.

Phong bì M2: Chất rắn dạng cục màu trắng đựng trong 06 gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Heroine, có tổng khối lượng 0,5385 gam.

Tng cộng: 0,6773 g Tại bản cáo trạng số: 218/CT-VKS ngày 25/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội : “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thột sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự v n giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Đối với mẫu vật còn lại sau giám định gồm: 0,0700 gam ma túy loại Heroine (Phong bì M1); 0,4447 gam ma túy loại Heroine (Phong bì M2) còn lại sau giám định trong 02 gói niêm phong số 257/GĐMT- PC09 của Phòng kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk; 01 cân tiểu ly màu đen có chữ POCKET SCALE; 02 nửa tờ vé số Đà Nẵng số 239957 ngày 27/02/2021; 05 miếng giấy bạc kích thước 5x10cm là tang vật của vụ án cần tịch Th tiêu hủy;

Tch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen kèm sim 0942.518.847 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu trắng kèm sim 0846.91.21.79 và 0354.96.29.02 là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án;

Đi với xe mô tô hiệu Yamaha Taurius màu đen, biển kiểm soát 47N1-7939 mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản của chị Nguyễn Thị Th (con gái ruột bị cáo). Ngày 28/02/2021, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội chị Th không biết vì vậy Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chị Th quản lý, sử dụng là phù hợp.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, cũng như lấy lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận:

Do ý thức coi thường pháp luật và tư lợi bất chính nên vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 28/02/2021, trước địa chỉ số 128 đường N, phường T, thành phố B. Công an phường T, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Th giữ một nửa tờ vé số bên trong có 02 gói ma túy loại Heroine có tổng khối lượng 0,1388 gam; Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H tại địa chỉ: 201 Nguyễn Chí Thanh, phường T, thành phố B, Th giữ 06 gói ma túy loại Heroine được quấn bằng băng keo đen bên ngoài để trên mặt bàn gỗ có tổng khối lượng 0,5385 gam.Tổng cộng: 0,6773g ma túy loại Heroine.

Tại phiên Tòa sau khi đánh giá tình chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột v n giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất vụ án, xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm sự thống nhất quản lý các chất ma túy của Nhà nước; Bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân d n đến các tệ nạn xã hội, tội phạm về hình sự như cướp giật, trộm cắp… song do ý thức coi thường pháp luật bị cáo đã cố ý mua bán trái phép 0,6773g ma túy loại Heroine, ngoài ra bị cáo là người có nhân thân xấu và ngày 14/8/2019, bị cáo bị TAND huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 35/2019/HSST. Bị cáo đang được hoãn chấp hành hình phạt tù theo Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số 41A/2020/CA ngày 08/10/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột nhưng lại cố ý tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra và cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[3]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[4].Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định gồm: 0,0700 gam ma túy loại Heroine (Phong bì M1); 0,4447 gam ma túy loại Heroine (Phong bì M2) còn lại sau giám định trong 02 gói niêm phong số 257/GĐMT- PC09 của Phòng kỹ Thật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk; 01 cân tiểu ly màu đen có chữ POCKET SCALE;

02 nửa tờ vé số Đà Nẵng số 239957 ngày 27/02/2021; 05 miếng giấy bạc kích thước 5x10cm là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp;

-Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm sim 0942.518.847 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước là phù hợp;

-Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng kèm sim 0846.91.21.79 và 0354.96.29.02 là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

-Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Taurius màu đen, biển kiểm soát 47N1-7939 mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản của chị Nguyễn Thị Th (con gái ruột bị cáo). Ngày 28/02/2021, bị cáo cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, chị Th không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chị Th quản lý, sử dụng là phù hợp.

[5] Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai mua của một người tên V (không rõ lai lịch) ở khu vực vành đai phường T, thành phố B để bán cho người tên A (không rõ lai lịch). Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của các đối tượng nên tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

Quá trình điều tra, các đối tượng Huỳnh Viết T, sinh năm 1984 và Nguyễn Thị K, sinh năm 1988 cùng trú tại Thôn 3, xã H, thành phố B; Nguyễn Trường G, sinh năm 1991 trú tại số 153/88 đường P, phường T, thành phố B khai nhận có mua ma túy của bị cáo H. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa bị cáo với các đối tượng nhưng bị cáo không thừa nhận. Xét thấy, chưa có đủ căn cứ để xử bị cáo đối với các lần bán trước, vì vậy cần tách hành vi này ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Huỳnh Viết T, Nguyễn Thị K, Nguyễn Trường G. Cơ quan điều tra chuyển về địa phương nơi cư trú lập hồ sơ giáo dục tại xã, phường theo quy định pháp luật là phù hợp.

Đi với ông Trần Xuân Kh là chủ nhà trọ mà bị cáo Thê. Quá trình điều tra xác định ông Kh không biết việc bị cáo H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không đề cập xử lý là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự ; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn H: 02 (Hai) năm 09 ( chín) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng hợp với hình phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 35/2019/HSST, ngày 14/8/2019 của TAND huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông.

Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 03 ( ba) năm 04 ( bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là 01/3/2021, khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/02/2019 đến ngày 01/3/2019 tại bản án Bản án số 35/2019/HSST, của TAND huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông ngày 14/8/2019.

[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy 0,0700 gam ma túy loại Heroine (Phong bì M1); 0,4447 gam ma túy loại Heroine (Phong bì M2) còn lại sau giám định trong 02 gói niêm phong số 257/GĐMT- PC09 của Phòng kỹ Thật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk; 01 cân tiểu ly màu đen có chữ POCKET SCALE; 02 nửa tờ vé số Đà Nẵng số 239957 ngày 27/02/2021; 05 miếng giấy bạc kích thước 5x10cm là tang vật của vụ án;

Tch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen kèm sim 0942.518.847 của bị cáo Nguyễn Văn H.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H 01 điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu trắng kèm sim 0846.91.21.79 và 0354.96.29.02 là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/8/2021 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B) Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha Taurius màu đen, biển kiểm soát 47N1-7939 cho chị Nguyễn Thị Th (con gái ruột bị cáo).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu miễn, giảm, Thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 222/2021/HSST

Số hiệu:222/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về