Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 21/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 22/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2021/TLHS-ST ngày 27 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN THÀNH L, sinh ngày 01/11/1992 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 8x, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn L (s) và bà Mai Thị L (s); Gia đình có 03 người con, bị cáo là con đầu; Có vợ Phan Thị M và có 01 con (sinh năm 2015).

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 06/9/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án HSPT số 123/2011/HSPT ngày 06/9/2011.

- Ngày 05/10/2020 bị Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 107/QĐ-XPHC về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền, số tiền 750.000đ.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/9/2020. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành L: Ông Bùi Xuân N – Luật sư Công ty Luật TNHH MTV A, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng bào chữa theo chỉ định của Tòa án. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Mai Văn H, sinh năm 1982. Trú tại: xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.

Người chứng kiến:

1. Ông Phạm L, sinh năm 1954; Trú tại: tổ 3x, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Tấn M, sinh năm 1986. Trú tại: tổ 1x, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17h45’ ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trước số nhà 4x đường H, phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thành L về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

*Tang vật thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nylong màu vàng kích thước (10,5x6) cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Được niêm phong, ký hiệu G.

- Số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

- 01 (một) xe mô tô hiệu Suzuki Smach ReVo BKS: 75K7-38xx.

- 01 (một) ĐTDĐ hiệu ViVo màu bạc gắn sim: 0795.616.2xx.

- 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh gắn sim: 0943.606.7xx.

Lúc 21h15’ ngày 08/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Nguyễn Thành L tại tổ 8x, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng không phát hiện thu giữ gì.

Qua điều tra xác định:

Nguyễn Thành L thông qua mối quan hệ ngoài xã hội, có quen biết với đối tượng tên N (không rõ nhân thân, lai lịch, sử dụng số điện thoại 07744942xx) có bán ma túy. Nguyễn Thành L đã mua ma túy của N 03 lần, cụ thể:

Lần 1: Khoảng tháng 3/2020, L dùng số điện thoại 0943.606.7xx liên lạc cho N để hỏi mua 05 gam ma túy đá. N đồng ý bán với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). L và N thống nhất N để sẵn ma túy trong bao nylong trước cổng chùa dưới chân đèo H, thành phố Đà Nẵng (L không nhớ tên chùa và địa chỉ cụ thể). Sau đó, N chỉ nơi cất ma túy để L đến lấy, khi lấy ma túy thì N để tiền mua ma túy tại vị trí này và N sẽ đến lấy sau. Theo chỉ dẫn, L điều khiển xe mô tô BKS: 75K7-38xx đến địa điểm trên để lấy ma túy và đặt tiền tại vị trí lấy ma túy. Số ma túy này, L đã sử dụng hết.

Lần 2: Khoảng tháng 7/2020, L dùng số điện thoại 0943.606.7xx liên lạc cho N để hỏi mua 50 gam ma túy đá. N đồng ý bán với giá 11.500.000đ (Mười một triệu năm trăm nghìn đồng). L và N thống nhất N để sẵn ma túy trong bao nylong trước cổng chùa dưới chân đèo H, thành phố Đà Nẵng (L không nhớ tên chùa và địa chỉ cụ thể). Sau đó, N chỉ nơi cất ma túy để L đến lấy, khi lấy ma túy thì N để tiền mua ma túy tại vị trí này và N sẽ đến lấy sau. Theo chỉ dẫn, L điều khiển xe mô tô BKS: 75K7-38xx đến địa điểm trên để lấy ma túy và đặt tiền tại vị trí lấy ma túy. Số ma túy này, L đã sử dụng hết.

Lần 3: Khoảng 14h00’ ngày 08/9/2020, có nam thanh niên (không biết tên, lai lịch, không nhớ số điện thoại) liên lạc cho L số 0943.606.7xx hỏi mua 50 gam ma túy đá. L đồng ý bán với giá 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng) và hẹn giao dịch tại trước số nhà 4x đường H, thành phố Đà Nẵng. Lúc này, L không có ma túy để bán nên L dùng số điện thoại 0943.606.7xx liên lạc cho N để hỏi mua 50 gam ma túy đá với giá 11.500.000đ (Mười một triệu năm trăm nghìn đồng). L và N thống nhất N để sẵn ma túy trong bao nylong trước cổng chùa dưới chân đèo H, thành phố Đà Nẵng để L đến lấy, đồng thời khi nào L bán hết số ma túy này thì sẽ trả tiền cho N. Theo chỉ dẫn, L một mình điều khiển xe mô tô tô BKS: 75K7-38xx đến địa điểm trên thì thấy bao nylong màu vàng và mở ra thì thấy bên trong có gói ma túy đá, L lấy cất vào túi quần bên trái của L đang mặc rồi điều khiển xe đến trước số nhà 4x đường H, thành phố Đà Nẵng. Tại đây, L lấy gói ma túy đá bỏ vào trong mũ bảo hiểm và liên lạc người mua ma túy để bán nhưng chưa kịp bán thì Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Kết luận giám định số 273/GĐ-MT ngày 15/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

-Mẫu tinh thể rắn màu trắng trong gói niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng tinh thể mẫu G: 52,141 gam.

Bản cáo trạng số 17/CT-VKS-P1 ngày 26/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng giữ quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L mức án từ 16 đến 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung số tiền từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự; Điều 46 Bộ Luật hình sự xử lý như sau:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ Mẫu hoàn trả sau giám định số : 273/GĐ-MT ngày 15/09/2020 của phòng KHHS–CATP Đà Nẵng ;

+ Sim số 0943.606.7xx ;

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

+ 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh.

- Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án :

+ Số tiền : 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) ;

+ 01 ĐTDĐ hiệu ViVo màu bạc.

- Trả lại :

+ Sim số 0795.616.2xx cho Nguyễn Thành L, do không liên quan đến vụ án.

Toàn bộ vật chứng nêu trên, Cục thi hành án Dân sự thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2021.

Quan điểm của Luật sư Bùi Xuân N bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Thành L thống nhất về tội danh, điểm, khoản, điều luật mà cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo cũng như thống nhất về các tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng một mức án thấp nhất.

Bị cáo Nguyễn Thành L thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Qua xem xét lời khai nhận tội của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 17h45’ ngày 08/09/2020, tại trước số nhà số 4x đường H, thuộc phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thành L về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ với khối lượng ma túy là 52,141 gam loại Methamphetamine. Qua điều tra đã xác định Nguyễn Thành L đang chuẩn bị bán ma túy cho một đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) đã hẹn trước qua điện thoại nhưng chưa kịp giao ma túy thị bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo thì thấy: Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù nhận thức được tác hại của các chất ma túy nhưng vì muốn có nhiều tiền, có ma túy để sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân nên bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội.

Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 06/9/2011 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tự răn đe mình, không chịu làm ăn theo con đường chính đáng mà lại muốn có nhiều tiền để tiêu xài nên tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi của bị cáo.

Hội đồng xét xử thống nhất với đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phải xử phạt thật nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, hòan cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, ông bà nội của bị cáo là người có công với đất nước nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS như đề nghị của Kiểm sát viên và Luật sư tại phiên tòa là có cơ sở.

[6] Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 BLHS;

Ngoài hình phạt chính ra cần áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo để thể hiện sự răn đe của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2021 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 28/01/2021 thì hiện nay Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ:

1. Mẫu hoàn trả sau giám định số : 273/GĐ-MT ngày 15/09/2020 của phòng KHHS–CATP Đà Nẵng ;

2. 01 ĐTDĐ hiệu ViVo màu bạc gắn sim 0795.616.2xx.

3. 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh gắn sim 0943.606.7xx;.

Căn cứ Điều 46 BLHS; Điều 106 BLTTHS xử lý như sau:

*Tịch thu tiêu hủy:

+ Mẫu hoàn trả sau giám định số 273/GĐ-MT ngày 15/09/2020 của phòng KHHS–CATP Đà Nẵng ;

+ Sim số 0943.606.7xx;

*Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

+ 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh, đây là điện thoại bị cáo đã dùng vào việc phạm tội.

*Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án :

+ Số tiền 1.500.000đ ( một triệu năm trăm ngàn đồng);

+ 01 ĐTDĐ hiệu ViVo màu bạc.

*Trả lại :

+ Sim số 0795.616.2xx cho Nguyễn THÀNH L, do không liên quan đến vụ án.

[8] Các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

- Đối tượng tên N là người bán ma túy cho L và nam thanh niên là người mua ma túy của Nguyễn Thành L. Hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra sẽ điều tra làm rõ, xử lý sau.

- Đối với xe mô tô hiệu Suzuki Smach ReVo BKS 75K7-38xx do Nguyễn Thành L mượn của nam thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch). Hiện nay chưa xác định được người sở hữu hợp pháp nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm b khoản 3; khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Thành L 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/9/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thành L số tiền 15.000.000đ 2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 46 Bộ luật Hình sự 2015; Tuyên:

*Tịch thu tiêu hủy:

- Mẫu hoàn trả sau giám định số: 273/GĐ-MT ngày 15/09/2020 của phòng KHHS–CATP Đà Nẵng ;

- Sim số 0943.606.7xx ;

*Tịch thu sung công quỹ nhà nước:

- 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh.

*Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án :

- Số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) ;

- 01 ĐTDĐ hiệu ViVo màu bạc.

*Trả lại :

- Sim số 0795.616.2xx cho Nguyễn Thành L.

Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện Cục Thi hành án TP Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2021 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 28/01/2021 (do Lê Thanh Hiền - CATP Đà Nẵng, đứng tên nộp vào tài khoản số 3949.0.1054137.00000 của VP Cục Thi hành án TP Đà Nẵng).

3.Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

4. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về