TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn M V, sinh ngày 09/10/2005; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 2, P. Đại P, TP. Bắc N, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn V C và bà Hoàng Thị V; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giam ngày 30/9/2023 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh D.
2. Đoàn V D, sinh ngày 01/12/2006; Nơi ĐKHKTT: Thôn Cáp T, xã Trung K, huyện Lương T, tỉnh B; Nơi ở hiện nay: Khu 5, P. Đại P, TP. Bắc N tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Con ông Đoàn V Độ và bà Nguyễn Thị Dịnh; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giam ngày 30/9/2023 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh D.
Người đại diện theo pháp luật của bị cáo D là ông Đoàn V Đ, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn Cáp T, xã Trung K, huyện Lương T, tỉnh B - Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn M V và bị cáo Đoàn V D là bà Nguyễn Thị Liên - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh D.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn V C, sinh năm 1979
2. Bà Hoàng Thị V, sinh năm 1981
3. Anh Nguyễn V M, sinh năm 2001
4. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1972 (Tại phiên tòa có mặt: bị cáo V, D, người đại diện theo pháp luật của bị cáo D và người bào chữa của các bị cáo; ông C, bà V. Vắng mặt anh M, ông Th).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có việc làm ổn định, cần tiền tiêu xài nên Nguyễn M V nảy sinh ý định mua ma túy Tobacco để bán kiếm lời. V sử dụng điện thoại Iphone 6, mầu đen xám, lắp sim số 0342.424.xxx đăng nhập vào ứng dụng Facebook bằng tài khoản tên “Nguyễn V” thấy tài khoản Facebook tên “T” của một người không quen biết có đăng bài bán ma túy Tobacco. Tối ngày 22/09/2023, V nhắn tin qua ứng dụng Messenger hỏi mua 100 gam ma túy Tobacco thì người này đồng ý bán với giá 1.350.000 đồng và hẹn V đến khu vực nhà văn hóa khu 4, phường Đại Phúc, TP. B, tỉnh B để lấy ma túy. V đi đến địa điểm trên thì gặp một nam thanh niên không quen biết, V đưa cho người này 1.350.000 đồng thì người này đưa lại cho V 01 túi zíp loại to chứa các sợi thực vật khô mầu vàng, là ma túy Tobacco. V mang túi chứa ma túy loại Tobacco về phòng thuê trọ tại khu 5, phường Đại Phúc của bạn là Đoàn V D cất giấu, mục đích để bán kiếm lời. Khi V cất giấu tại phòng trọ thì D nhìn thấy hỏi: “Tobacco hả anh”, V trả lời: “Ừ, hàng này để anh em chơi và bán lấy tiền lãi anh em mình tiêu xài chung” thì D đồng ý. Sau đó, V mua cân tiểu ly và túi zíp loại nhỏ ở khu vực chợ Đọ thuộc thành phố B về chia nhỏ số ma túy đã mua để bán cho khách có nhu cầu. Đồng thời, V đăng bài bán Tobacco trên mạng Facebook. Từ ngày 22/09 đến ngày 25/09/2023, V đã bán ma túy loại Tobacco cho một vài người, những người mua đều liên lạc với V qua ứng dụng Messenger và hẹn địa điểm giao bán ma tuý trên đường nên V không biết thông tin tên tuổi, địa chỉ của những người này. Sau khi thực hiện xong các giao dịch mua bán ma tuý V xóa toàn bộ nội dung trò chuyện với người mua.
Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 26/09/2023, V đến phòng trọ của D để rủ D đi câu cá. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi cả hai đang câu cá tại hồ điều hòa thuộc phường Đại Phúc thì người sử dụng tài khoản Facebook “T” nhắn tin cho V bảo có khách ở huyện T, tỉnh D hỏi mua 700.000 đồng ma túy, loại Tobacco và hỏi V có đi giao bán ma túy cho khách được không thì V đồng ý. V nhắn tin số điện thoại của V gửi cho người sử dụng tài khoản “T” để người này gửi cho khách mua. Một lúc sau, có một người không quen biết nhắn tin qua ứng dụng Zalo bằng tài khoản tên “Phúc M” nhắn tin đến tài khoản Zalo tên “vương văn” của V hỏi mua ma túy, loại Tobacco với số tiền 700.000 đồng và yêu cầu V mang đến khu vực huyện T, tỉnh D để giao thì D nhắn phải trả thêm 150.000 đồng tiền công đi giao. Người sử dụng tài khoản Zalo “Phúc M” đồng ý và gửi cho V số điện thoại 0336.468.xxx (Đăng ký chủ thuê bao mang tên Tô Thị Kim Loa, sinh năm 1985, HKTT: Ấp Xẻo Sao, xã Lâm Hải, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau) cùng vị trí địa điểm nhận ma túy. V bảo với D đi giao bán ma túy loại Tobacco cho khách thì D đồng ý. Sau đó, D ở hồ câu cá còn V về phòng trọ của D chuẩn bị ma túy Tobacco thì thấy Nguyễn V M, sinh năm 2001 - Là anh ruột của V đang nằm ngủ tại phòng trọ (M cũng quen biết và chơi với D). V bảo M dậy đi ra ngoài, còn V lấy số ma túy Tobacco còn lại đựng trong túi nilon cất trong phòng trọ dùng cân tiểu ly cân được khoảng 20gam. V cất túi ma túy này vào trong túi quần bên phải, cầm theo chiếc cân tiểu ly rồi điều khiển xe máy Honda Wave, màu sơn xanh, gắn biển số 99G1 - xxxxx (Xe của bố, mẹ V là ông Nguyễn V C, sinh năm 1979 và bà Hoàng Thị V, sinh năm 1981, đều có HKTT: Khu 2, phường Đại Phúc, TP. B) đi ra hồ đón D về phòng trọ. Trên đường đi, V làm rơi mất chiếc cân tiểu ly. Khi V đi thì M vào phòng trọ ngủ tiếp. Về phòng trọ, V đưa cho D túi nilon chứa ma túy loại Tobacco cùng chiếc điện thoại Iphone 6 của V rồi bảo D mang số ma túy trên đi bán cho khách ở huyện T, tỉnh D và thu 850.000 đồng, sau khi bán được ma túy V sẽ cho D 50.000 đồng thì D đồng ý. V còn gửi vị trí, số điện thoại của khách mua qua tin nhắn Zalo cho D, rồi V quay lại hồ để câu cá (V cho D mượn điện thoại vì thấy điện thoại của D sắp hết pin). Còn D gọi M dậy, rủ M cùng đi đến huyện T, tỉnh D chơi thì M đồng ý (D không nói cho M biết mục đích đi bán ma túy). M lấy chiếc điện thoại của V từ D và tháo chiếc sim 0342.424.xxx từ máy V lắp vào điện thoại của mình, mục đích để sử dụng vì sim của V có đăng ký mạng, rồi để chiếc điện thoại của V tại phòng trọ của D. Tiếp đó, D điều khiển xe máy Honda Wave, màu sơn xanh, gắn biển số 99G1- xxxxx chở M đi đến khu vực cầu Ngọc Đường thuộc huyện T, tỉnh D thì D dừng xe bảo M xuống đứng đợi.
D điều khiển xe đi tiếp khoảng 100 mét theo vị trí định vị V gửi trước đó, đến khu vực thôn Thị Tứ, xã Quang Phục, huyện T thì dừng lại, sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone, loại 7 Plus, vỏ mầu đen, lắp sim số 0359.233.xxx gọi điện đến số điện thoại 0336.468.xxx của người đặt mua ma túy thì người này không nghe máy. Khoảng 15 giờ 55 phút cùng ngày, khi D đang đứng đợi người mua ma túy đến thì bị tổ công tác Công an huyện T phát hiện kiểm tra, lập biên bản vụ việc, thu giữ vật chứng gồm: 01 (Một) túi nilon mầu trắng kích thước (19x12)cm, bên trong túi nilon chứa 19,52gam các sợi thực vật khô mầu nâu vàng có chứa chất ma túy MDMB-4en-PINACA bên trong túi quần phía trước bên trái chiếc quần D đang mặc; 01 điện thoại Iphone 7 Plus, vỏ mầu đen, lắp sim số: 0359.233.xxx; 01 xe máy kiểu dáng Honda Wave, mầu sơn xanh, lắp biển số 99G1 - xxxxx (bút lục số 44- 45).
Do không thấy D quay lại, M đã bắt xe taxi đi về, rồi đến phòng trọ của D cầm chiếc điện thoại Iphone 6 của V, lắp lại sim số 0342.424.xxx mang về nhà tại khu 2, phường Đại Phúc để trên nóc tủ phòng khách. Sau đó, ông Nguyễn V C (Bố V và M) dọn nhà nhìn thấy, tưởng chiếc điện thoại trên bị hỏng nên đã vứt đi.
Khám xét nơi ở của Nguyễn M V thu giữ 02 túi nilon mầu trắng, cùng kích thước (8,7x5)cm; 01 túi nilon mầu trắng, kích thước (7,7x4) cm, bên trong chứa các sợi thực vật khô mầu vàng V khai nhận là ma túy cất giấu để bán kiếm lời;
Tại bản Kết luận giám định số 762 ngày 28/09/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hải Phòng kết luận: Thực vật khô của gửi giám định có tổng khối lượng: 19,52 gam, tìm thấy chất ma tuý, loại: MDMB-4en-PINACA.
Phòng PC09, Công an thành phố Hải Phòng không có mẫu chuẩn hàm lượng nên không tiến hành xác định hàm lượng, khối lượng chất MDMB-4en- PINACA. MDMB-4en-PINACA, STT 241, danh mục IIC, thuộc Danh mục các chất ma tuý theo nghị định số: 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022.
Tại bản Kết luận giám định số 763 ngày 29/09/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hải Phòng kết luận: Thực vật khô (thu giữ khi khám xét nơi ở của V) gửi giám định có tổng khối lượng: 0,29 gam, tìm thấy chất ma túy, loại: MDMB-4en-PINACA. Phòng PC09, Công an thành phố Hải Phòng không có mẫu chuẩn hàm lượng nên không tiến hành xác định hàm lượng, khối lượng chất MDMB-4en-PINACA. MDMB-4en-PINACA, STT 241, danh mục IIC, thuộc Danh mục các chất ma tuý theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022. (bút lục số 49- 50).
Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKSTK, ngày 23/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện T để xét xử đối với bị cáo Nguyễn M V và Đoàn V D cùng về tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa:
- Đại diện VKSND huyện T giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX ): Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn M V và Đoàn V D đều phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52, các Điều 17, 38, 58, 91, 101 BLHS đối với bị cáo Nguyễn M V, xử phạt bị cáo V từ 21 đến 23 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam - Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 17, 38, 58, 91, 101 BLHS đối với bị cáo Đoàn V D, xử phạt bị cáo D từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam.
Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí theo quy định pháp luật.
- Các bị cáo Nguyễn M V, Đoàn V D thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình công nhận quyết định truy tố của VKSND huyện T là đúng và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Người đại diện theo pháp luật của bị cáo D trình bày đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa cho các bị cáo trình bày xác định cáo trạng của VKSND huyện T đã truy tố đối với bị cáo là đúng và đề nghị HĐXX khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo căn cứ vào chế độ, chính sách pháp luật của nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng cho bị cáo V tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS do tham gia chống dịch Covid - 19. Đề nghị xử phạt bị cáo V 18 tháng tù, bị cáo D 16 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản vụ việc, biên bản giải trình điện thoại, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 26/09/2023, tại khu 5, phường Đại Phúc, Nguyễn M V bảo Đoàn V D mang 01 túi nilon đựng 19,52g các sợi thực vật mầu nâu vàng có chứa chất ma túy, loại: MDMB-4en-PINACA cho Đoàn V D đi bán cho khách ở huyện T, tỉnh D cho người có tài khoản Zalo tên“Phúc M”, V sẽ trả D 50.000 đồng tiền công, D đồng ý cầm ma tuý, điều khiển xe máy Honda Wave, màu sơn xanh, gắn biển số 99G1- xxxxx chở Nguyễn V M đi bán ma tuý. Khoảng 15 giờ 55 phút cùng ngày, khi D đang đứng ở khu vực chân cầu Ngọc Đường, thuộc thôn Thị Tứ, xã Quang Phục, huyện T chờ người mua ma túy đến để giao bán thì tổ công tác Công an huyện T phát hiện, kiểm tra lập biên bản vụ việc, thu giữ cùng vật chứng. Ngoài ra, V còn cất giấu 0,29g các sợi thực vật khô mầu nâu vàng có chứa chất ma túy loại MDMB-4en-PINACA tại chỗ ở, mục đích để bán kiếm lời.
[3] Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài không bằng chính sức lao động nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Ma túy các bị cáo mua bán có chất ma túy loại MDMB-4en-PINACA, STT 241, danh mục IIC, thuộc Danh mục các chất ma tuý theo nghị định số:
57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 nên hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Mặc dù nhận thức được ma tuý không chỉ gây tác hại cho sức khỏe cho chính người sử dụng mà và còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nhưng vì mục đích kiếm lời từ việc mua bán trái phép chất ma túy, ý thức coi thường pháp luật, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật. Trong vụ án, bị cáo Nguyễn M V là người trực tiếp liên hệ mua và bán ma túy nên giữ vai trò chính là người thực hành tích cực, bị cáo Đoàn V D giữ vai trò đồng phạm là người thực hành.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[5.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo V đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS do bị cáo tham gia công tác phòng chống dịch Covid-19 thì thấy việc tham gia phòng chống dịch là trách nhiệm của mội người dân trong việc đẩy lùi dịch bệnh, bên cạnh đó từ thời điểm dịch bệnh đến nay đã xa và đây cũng không phải tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật nên không có căn cứ chấp nhận đề nghị của người bào chữa.
[5.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn M V thuê bị cáo Đoàn V D là người dưới 18 tuổi đi giao ma túy cho mình nên bị cáo V phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự " Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội" theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS.
Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, vai trò đồng phạm cũng như chính sách của nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội, HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo song vẫn cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dụng riêng đối với các bị cáo cũng như có tác dụng phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và có bị cáo là người chưa thành niên nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bì thư mầu trắng niêm phong dán kín, bên trong có 14,48 gam thực vật và 01 bì thư mầu trắng niêm phong dán kín, bên trong có 0,08 gam thực vật đều là mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 02 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước (8,7x5) cm, 01 túi nilon màu trắng kích thươc (8,4x5) cm, 01 sim số 0359233xxx không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại Iphone 7 Plus các bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước.
[8] Trong vụ án, đối với người bán ma túy cho V, người đặt mua ma túy của V quá trình điều tra không làm rõ được nên không đặt ra xem xét. Sau này nếu có căn cứ sẽ được xem xét trong vụ án khác.
Đối với anh Nguyễn V M, ông Nguyễn V C và bà Hoàng Thị V không biết việc D đi bán ma túy nên không đặt ra xem xét.
[9] Về án phí: Các bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điều 251 BLHS
- Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn M V và Đoàn V D đều phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" - Về Hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52 , các Điều 17, 38, 58, 91, 101 BLHS đối với bị cáo Nguyễn M V. Xử phạt bị cáo Nguyễn M V 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 30/9/2023.
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 17, 38, 58, 91, 101 BLHS đối với bị cáo Đoàn V D. Xử phạt bị cáo Đoàn V D 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 30/9/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư mầu trắng niêm phong dán kín, bên trong có 14,48 gam thực vật và 01 bì thư mầu trắng niêm phong dán kín, bên trong có 0,08 gam thực vật đều là mẫu vật hoàn lại sau giám định cùng 02 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước (8,7x5) cm, 01 túi nilon màu trắng kích thươc (8,4x5) cm, 01 sim số 0359233xxx.
- Tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone 7 Plus.
(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T ngày 01/ 02 /2024 ).
3. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Nguyễn M V và Đoàn V D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp và người bào chữa của các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm ngày), kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 21/02/2024.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 20/2024/HS-ST
Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về