TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 199/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 200/2022/TLST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Trần Văn T, sinh năm 1992 tại tỉnh Hậu Giang; nơi cư trú: Ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V (đã chết) và bà Đinh Thị M;
Nhân thân:
+ Ngày 14/3/2018, bị Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe người khác theo quyết định số 05/QĐ-XPHC. Đã đóng tiền ngày 16/03/2018.
+ Ngày 07/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử 03 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo Bản án số 167/2012/HSST. Chấp hành hình phạt tù xong ngày 19/9/2014. Chấp hành án phí xong ngày 08/10/2012.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2022 cho đến nay. Có mặt.
2. Lê Văn T, sinh năm 1988 tại tỉnh Hậu Giang; nơi cư trú: Ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị T; có vợ tên Nguyễn Thị Mỹ C và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2008 và nhỏ nhất sinh năm 2020.
Nhân thân: Ngày 07/7/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo Bản án số 197/2011/HSST. Chấp hành hình phạt tù xong ngày 13/01/2012.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2022 cho đến nay. Có mặt.
3. Hồ Đắc C, sinh năm 1990, tại tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: Thôn T, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Đắc C và bà Nguyễn Thị X; tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/3/2022 cho đến nay. Có mặt.
4. Lê Công L, sinh năm 1995, tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: Ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị L; có vợ tên Ngô Huỳnh Thị Trúc A và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/3/2022 cho đến nay. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Huỳnh An L, sinh năm 1981; nơi cư trú: Xã B, huyện C, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Huỳnh Thanh N. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 10 phút ngày 06/3/2022, Công an phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên làm nhiệm vụ tuần tra, khi đến đoạn góc chợ Phú Lợi thuộc khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát hiện Lê Văn T và Trần Văn T có biểu hiện khả nghi nên tiến hành kiểm tra thì phát hiện Trần Văn T đang bán 01 nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý) cho Lê Văn T với giá 500.000 đồng.
Quá trình làm việc:
Lê Văn T khai nhận: Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L có mối quan hệ quen biết với nhau, đều là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine). Đồng thời Lê Văn T quen biết với Trần Văn T vì nhiều lần mua ma tuý của Trần Văn T. Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 06/3/2022, Lê Công L điện thoại cho T nhờ T mua giùm 500.000 đồng ma túy thì T đồng ý. Sau đó, L điều khiển xe ô tô tải biển số 51C – 819.23 chở C đi đến phòng trọ của T đón T đến điểm hẹn mua ma tuý là chợ Phú Lợi. Trên đường đi, C đưa 300.000 đồng và L đưa 200.000 đồng cho T để mua ma túy. Khi đến đầu chợ Phú Lợi thuộc khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì T xuống xe và đi qua đường, còn L và C ngồi trên xe chờ. Khi đi bộ đến đầu chợ Phú Lợi gặp T thì T đưa cho T 500.000 đồng, T đưa lại cho T 01 (một) gói ma tuý thì bị Lực lượng Công an phường Uyên Hưng tuần tra phát hiện, do sợ hãi nên T thả gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá xuống đất dùng chân dậm lên, còn trên tay T đang cầm 500.000 đồng là tiền bán ma túy cho T. Ngoài ra, T còn bán ma túy cho T được 03 (ba) lần, mỗi lần bán từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.
Trần Văn T khai nhận: Số ma túy Công an thu giữ là T vừa bán cho T với số tiền 500.000 đồng. Số ma tuý này do T mua vào lúc 18 giờ ngày 06/3/2022 tại ngã ba cây xăng An Lộc, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương của một người phụ nữ không rõ lai lịch với giá 600.000 đồng. T đã lấy ra sử dụng một ít, số còn lại bán cho T. Trước đây, T đã bán ma túy cho T được 03 (ba) lần, mỗi lần bán từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. T thu lợi bất chính khoảng 500.000 đồng.
Công an phường Uyên Hưng tiến hành lập biên bản niêm phong, biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói nylon miệng dán kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý tổng hợp); 500.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đậm chứa sim số 0978.926846; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh chứa sim số 0965.256491. Sau đó, chuyển hồ sơ, vật chứng thu giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Sau khi tiếp nhận nguồn tin từ Công an phường Uyên Hưng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Trần Văn T là phòng số 10 cư xá Phúc Lợi, khu phố 7, phường Uyên Hưng, thu giữ gồm: 02 ống nỏ thuỷ tinh.
Qua làm việc Hồ Đắc C và Lê Công L khai nhận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 06/3/2022, sau khi uống bia xong thì L điều khiển xe ô tô tải biển số 51C – 819.23 chở C về phòng trọ của L tại khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Lúc này, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L rủ C góp tiền mua ma túy về sử dụng, C góp 300.000 đồng và L góp 200.000 đồng. L gọi điện thoại cho T nhờ mua ma túy dùm rồi điều khiển xe ô tô tải biển số 51C – 819.23 chở C đi đến phòng trọ của T chở T đến địa điểm mua ma tuý tại chợ Phú Lợi thuộc khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Khi đến đầu chợ thì L đưa tiền cho T, T xuống xe đi bộ qua đường, còn L và C ngồi trên xe chờ. Do chờ lâu không thấy T quay lại nên L và C đi về phòng trọ của L tại nhà trọ Thu Hà thuộc khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Đến ngày 07/3/2022 thì bị bắt giữ và thu giữ 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung màu tím chứa sim số 0359.450413; 01 (một) xe ô tô tải biển số 51C-819.23; 01 giấy đăng ký xe ô tô tải biển số 51C-819.23; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Công L; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh chứa sim số 0965.256491 của Hồ Đắc C.
Bản kết luận giám định số 146/MT-PC09 ngày 11/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,3723 gam, loại Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số 212/CT-VKS.TU ngày 29/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lê Văn T, Hồ Đắc C và Lê Công L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
+ Về trách nhiệm hình sự:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 08 năm đến 09 năm tù.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T và Lê Công L, mỗi bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Xử phạt bị cáo Hồ Đắc C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.
+ Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên;
Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 146/PC09 có chữ ký của người bị bắt Trần Văn T, Lê Văn T, người chứng kiến Trương Công L, cán bộ niêm phong Phạm Quyết T; dấu đỏ của Công an phường Uyên Hưng; dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 146/MT-PC09 ngày 11/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 02 ống nỏ thuỷ tinh.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 500.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung màu tím chứa sim số 0359.450413; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đậm chứa sim số 0978.926846; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh chứa sim số 0965.256491; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen chứa sim số 0964.794674.
Trả lại cho Lê Công L 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Công L.
Buộc bị cáo Trần Văn T nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 500.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.
Đối với xe ôtô tải biển số 51C-819.23, nhãn hiệu HUYNDAI, số khung: RLPRA17BP5T002113, số máy: D4BB5163317 là xe Lê Công L mượn của ông Huỳnh An L. Qua xác minh thì xe này của bà Lê Thị Lệ T đứng tên chủ sở hữu, bà T đã bán xe này cho một người không rõ nhân thân lai lịch với giá 100.000.000 đồng vào năm 2017 và khi bán chỉ làm giấy tay không công chứng sang tên mua bán. Qua tra cứu xe không nằm trong tàng thư vật chứng. Ông Huỳnh An L khai mua xe trên lại với giá 100.000.000 đồng vào năm 2017 của một người không rõ nhân thân lại lịch và khi mua xe không làm giấy tờ mua bán. Tháng 3/2022 có cho L mượn để đi chở rau về bán và không biết việc L sử dụng xe để đi mua ma túy. Ngày 04/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 42 trả xe ôtô tải biển số 51C-819.23 và giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô biển số 51C- 819.23 cho ông Huỳnh An L. Do đó, không đặt ra xem xét.
- Các bị cáo Trần Văn T, Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo cơ hội sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên việc lập Danh bản, Chỉ bản của các bị cáo không thực hiện theo đúng mẫu số 186 và 187 của Thông tư 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự, cần phải khắc phục.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Trần Văn T, Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và kết luận giám định. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:
[2.1] Ngày 06/3/2022, tại chợ Phú Lợi thuộc khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị cáo Trần Văn T có hành vi bán 0,3723 gam ma tuý, loại Methamphetamine cho Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L với giá 500.000 đồng thì bị bắt quả tang. Ngoài lần bán ma túy cho Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L vào ngày 06/3/2022 thì trước đó, Trần Văn T đã bán ma tuý cho cho Lê Văn T 03 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng thu lợi bất chính 500.000 đồng.
Do đó, Hành vi của bị cáo Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
[2.2] Ngày 06/03/2022, tại chợ Phú Lợi thuộc khu phố 7, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương các bị cáo Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L có hành vi tàng trữ 0,3723 gam ma tuý, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt giữ.
Hành vi của các bị cáo Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã vi phạm quy định về chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, ngoài ra hành vi của các bị cáo còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về đồng phạm: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn giữa bị cáo Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L. Trong đó, bị cáo L là người chủ động rủ rê cùng bị cáo C góp tiền mua ma tuý. Bị cáo T trực tiếp liên hệ mua ma tuý. Do đó, khi quyết định hình phạt sẽ xem xét toàn diện về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
[6] Về nhân thân: Bị cáo Lê Văn T ngày 07/7/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử 01 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo bản án số 197/2011/HSST; bị cáo Trần Văn T ngày 14/3/2018, bị Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe người khác theo quyết định số 05/QĐ-XPHC và ngày 07/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử 03 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo bản án số 167/2012/HSST.
[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[9] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.
[10] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
+ Đối với 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 146/PC09 có chữ ký của người bị bắt Trần Văn T, Lê Văn T, người chứng kiến Trương Công L, cán bộ niêm phong Phạm Quyết T; dấu đỏ của Công an phường Uyên Hưng; dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 146/MT-PC09 ngày 11/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 02 ống nỏ thuỷ tinh là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung màu tím chứa sim số 0359.450413 của Lê Công L; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đậm chứa sim số 0978.926846 của Trần Văn T; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh chứa sim số 0965.256491 của Hồ Đắc Chậu; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen chứa sim số 0964.794674 của Lê Văn T. Các bị cáo khai nhận sử dụng điện thoại để trao đổi, giao dịch mua bán ma tuý. Do đó cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
+ Đối với số tiền 500.000 đồng là vật chứng của vụ án, do T bán ma tuý cho T. Do đó cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
+ Buộc bị cáo Trần Văn T nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 500.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.
+ Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Công L không liên quan đến vụ án. Do đó cần trả lại cho Lê Công L.
[12] Đối với đối tượng bán ma túy cho Trần Văn T, hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau.
[13] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;
Các bị cáo Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt:
1.1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Văn T 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/3/2022.
1.2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;
- Xử phạt bị cáo Lê Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/3/2022.
- Xử phạt bị cáo Lê Công L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/3/2022.
- Xử phạt bị cáo Hồ Đắc C 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/3/2022.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 146/PC09 có chữ ký của người bị bắt Trần Văn T, Lê Văn T, người chứng kiến Trương Công L, cán bộ niêm phong Phạm Quyết T; dấu đỏ của Công an phường Uyên Hưng; dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 146/MT-PC09 ngày 11/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 02 ống nỏ thuỷ tinh.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung màu tím chứa sim số 0359.450413; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đậm chứa sim số 0978.926846; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vsmart màu xanh chứa sim số 0965.256491; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen chứa sim số 0964.794674; Số tiền 500.000 đồng.
- Buộc bị cáo Trần Văn T nộp số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) để sung ngân sách Nhà nước - Trả lại cho bị cáo Lê Công L 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Công L.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/9/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) 3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Trần Văn T, Lê Văn T, Hồ Đắc C, Lê Công L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai./.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 199/2022/HS-ST
Số hiệu: | 199/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về