Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 178/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 178/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 172/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 182/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1993; HKTT: Thôn Song Khê 2, xã S, thành phố B1, tỉnh B1; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1974; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất trong gia đình; Vợ: Thân Thị Ngọc A, sinh năm 1998 (đã ly hôn); Con: Có một con, sinh năm 2018;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/03/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh B, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 29/3/2022, Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 bắt taxi đi từ nhà ở thôn Song Khê 2, xã S, thành phố B1, tỉnh B1 đến thôn vực phường Đại Phúc, thành phố B, tỉnh B để chơi với bạn. H không nhớ biển kiểm soát, hãng xe taxi, không biết tên, tuổi, địa chỉ người tài xế lái xe taxi. Khi đi đến khu vực chợ cóc thuộc khu 10, phường Đại Phúc, thành phố B thì H nảy sinh ý định mua ma túy Ketamine để bán lại kiếm lợi nhuận. H xuống xe taxi và đi loanh quanh tìm người bán ma túy. Tại đây H gặp và mua được từ một người đàn ông không quen biết số tiền 300.000 đồng ma túy có đặc điểm là 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng. H biết đây là ma túy Ketamine nên cầm lấy và cất giấu trong người, đợi khi nào có người cần mua thì sẽ bán lại kiếm lợi nhuận.

Khoảng 17 giờ 50 phút cùng ngày 29/3/2022, H đi đến khu vực ngã 3 thuộc khu 10, phường Đại Phúc, thành phố B để đợi bạn. Trong lúc đang đợi thì có một người phụ nữ H không quen biết, sau này khi bị bắt H mới biết người phụ nữ này tên là Trịnh Thị H1, sinh năm 1983, HKTT: khu 5, phường Đ, thành phố B, tỉnh B, đã đi đến gần H và hỏi: “Có ma túy Ketamine bán không, bán cho 500.000 đồng”, H trả lời: “Có”. H1 đưa cho H 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, H nhận lấy tiền và cầm ở tay trái. Sau đó H đưa lại cho H1 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy Ketamine, H1 cầm ma túy ở tay trái. Đúng lúc này có lực lượng Công an đến kiểm tra, bắt quả tang H và H1 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật và yêu cầu mọi người về trụ sở làm việc.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ tại tay trái của H1 có 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng; lực lượng Công an tiến hành thu giữ cho vào 01 phong bì thư niêm phong dán kín, ký hiệu M1;

- Thu giữ tại tay trái của H đang cầm 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng có số seri là EA15739255; lực lượng Công an thu giữ cho vào 01 phong bì thư niêm phong dán kín, ký hiệu M2;

Cùng ngày 29/03/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố B tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại thôn Song Khê 2, xã S, thành phố B1, tỉnh B1. Kết quả không thu giữ thêm đồ vật, tài liệu gì.

Tại Kết luận giám định số: 280/KLGĐMT-PC09 ngày 31/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) túi nilon màu trắng trong phong bì thư ký hiệu M1 có khối lượng 0,4530 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Ketamine;

- 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng có số seri: EA 15739255 trong phong bì thư ký hiệu M2 là tiền thật.

Đối với số ma túy còn lại sau giám định và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B để bảo quản và xử lý sau.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 109/CT-VKSTPBN ngày 07/07/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Văn H từ 26 đến 30 tháng tù giam. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng là tiền H bán ma túy mà có.

Bị cáo Nguyễn Văn H nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn H tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản khám xét; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Hồi 17 giờ 50 phút ngày 29/3/2022 tại khu 10, phường Đại Phúc, thành phố B, tỉnh B, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B đã bắt quả tang Nguyễn Văn H, sinh năm 1993, HKTT: thôn Song Khê 2, xã S, thành phố B1, tỉnh B1 có hành vi bán trái phép 0,4530 gam chất ma túy Ketamine cho Trịnh Thị H1, sinh năm 1983, HKTT: Khu 5, phường Đ, thành phố B, tỉnh B với giá 500.000 đồng để kiếm lợi nhuận.

Như vậy, thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì hám lợi bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố B. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu, không có tình tiết tăng nặng trách triệm hình sự; Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Ông nội của bị cáo là Nguyễn Văn M tham gia kháng chiến chống Pháp và được tặng thưởng Huân chương h thắng hạng ba; Bà nội của bị cáo tham gia Dân công hỏa tuyến, được cấp giấy chứng nhận và hưởng chế độ. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xét xử bị cáo bằng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua bán ma tuý nhằm mục đích để kiếm lợi nhuận, lẽ ra cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với Trịnh Thị H1 là người đã mua ma túy của H để sử dụng cho bản thân. Do khối lượng ma túy chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự. H1 chưa có tiền án, tiền sự. Hiện tại H1 không có mặt tại địa phương, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa xác minh làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho H ở khu 10, phường Đại Phúc, thành phố B, tỉnh B. Do H không quen biết người này, không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể người này ở đâu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được con người cụ thể, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định, đựng trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng là tiền H bán ma túy mà có.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý.

Xử phạt: Nguyễn Văn H 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ 29/3/2022. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định, đựng trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/06/2022 giữa Công an thành phố B với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 178/2022/HS-ST

Số hiệu:178/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về