Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 173/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 173/2023/HS-ST NGÀY 20/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 811/2022/HSST ngày 20/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1271/2023/QĐST-HS ngày 24/3/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Bùi H; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17 tháng 10 năm 1995, tại H; Nơi đăng ký thường trú: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh H; Chỗ ở: phòng 103, nhà số 80, đường số 49, phường D, Quận E, Thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Trần Bùi H, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1977; Vợ, con: chưa có; Tiền án: Không, tiền sự: Không;

Tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2022. Có mặt.

2. Họ và tên: Võ Hoàng Y; Giới tính: Nam; Sinh ngày 27 tháng 9 năm 1982, tại V; Nơi đăng ký thường trú: ấp 3B, xã F, huyện G, tỉnh V; Chỗ ở: không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: chạy xe giao hàng công nghệ; Con ông Võ Ngọc L, sinh năm 1951 và bà Phan Thị R, sinh năm 1951; Vợ: Lê Thị Kim H, sinh năm 1982; Con: có 02 người, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018; Tiền án: không, tiền sự: Không;

Tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2022. Có mặt.

Người bào chữa:

Ông Đoàn Anh Phương V – Luật sư của Văn phòng Luật sư V, Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa chỉ định cho bị cáo Trần Bùi H. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1982; Địa chỉ: ấp H, xã I, huyện K, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 27/4/2022, tại trước số 186 đường X, phường L, Quận M, Thành phố H, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận M phát hiện Võ Hoàng Y đang điều khiển xe mô tô biển số 71B4-xxxxx có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện phía trước bên trái chỗ để chân của xe mô tô có 01 (một) gói nylon dán băng keo đen bên ngoài, bên trong có: 01 (một) gói nylon chứa 01 (một) viên nén màu xanh là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5006 gam, loại MDMA và 01 (một) viên nén màu hồng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5287 gam, loại MDMA; 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,9684 gam, loại Ketamine. Ngoài ra còn thu giữ của Võ Hoàng Y: 01 xe mô tô biển số 71B4-xxxxx, 01 điện thoại di động. Qua xác minh Võ Hoàng Y ở Thành phố H không có chỗ ở cố định, thỉnh thoảng có ghé nhà của một người bạn tên Nguyễn Thị Kim O để tắm và ngủ lại qua đêm, không khai báo cư trú với Công an phường L, Quận M. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận M không tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Võ Hoàng Y (BL: 185, 186).

Võ Hoàng Y khai nhận số ma túy trên là của Trần Bùi H đưa cho Y để đi giao cho khách mua ma túy (không rõ lai lịch) tại hẻm số 2174 đường Y, thị trấn S huyện T, Thành phố H (BL: 201 đến 208).

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, cùng ngày 27/4/2022, Công an Quận M khám xét chỗ ở của Trần Bùi H tại địa chỉ 80 đường số 49, phường L, Quận M, Thành phố H. Tại thời điểm khám xét, trong phòng của Trần Bùi H còn có bạn gái của H là Trần Thu T. Kết quả, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận M phát hiện, bắt quả tang H cất giấu ma túy bên trong bóp da màu trắng tại chỗ ở, thu giữ 46,5253 gam, loại Ketamine và 97,1264 gam, loại MDMA. Ngoài ra còn tạm giữ của H 01 cân tiểu ly, 01 xe mô tô biển số 89B1- xxxxx, 01 xe mô tô biển số 16P2-xxxxx, 02 (hai) điện thoại di động và 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) tiền Việt Nam.

Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 2470/KL-KTHS ngày 05/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố H (BL: 26).

Quá trình điều tra, hồ sơ thể hiện: Trần Bùi H khai nhận khoảng tháng 02/2022, khi đi hát karaoke trên đường A, Quận M, Trần Bùi H gặp và làm quen với một người nam tên thường gọi là H1 (không rõ lai lịch). H1 có đặt vấn đề với H nếu có nhu cầu mua ma túy thì liên hệ với H1; từ tháng 02/2022 đến khi bị bắt vào ngày 27/4/2022, H đã mua ma túy của Hai được 03 lần vào các ngày 06/02/2022, 03/3/2022, 09/4/2022, mỗi lần H mua 50 gam (năm mươi) gam ma túy loại “khay” (Ketamine) với giá 30.000.000 đồng và 100 (một trăm) viên ma túy dạng thuốc lắc với giá 160.000 đồng/01 viên. H1 cho người mang ma túy qua phòng trọ của H để giao và lấy tiền. Sau khi mua ma túy, H chia nhỏ, cất giấu trong phòng trọ và thông báo cho bạn bè quen biết để bán kiếm lời. Võ Hoàng Y biết việc Trần Bùi H mua bán trái phép chất ma túy và đã phụ giúp H đi giao ma túy 04 lần, cụ thể như sau:

- Lần 1: khoảng 23 giờ ngày 21/4/2022, H nhờ Y giao ma túy (02 gam ma túy “khay” với giá 1.600.000 đồng) cho một người không rõ lai lịch tại khu vực địa chỉ 528 đường A, Quận M. Lần giao ma túy này H trả công cho Y 100.000 đồng.

- Lần 2: khoảng 00 giờ ngày 22/4/2022, H nhờ Y giao ma túy (05 viên thuốc lắc với giá 1.000.000 đồng) cho một người không rõ lai lịch tại khu vực địa chỉ 528 đường A, Quận M. Lần giao ma túy này H trả công cho Y 150.000 đồng.

- Lần 3: khoảng 03 giờ ngày 22/4/2022, H nhờ Y giao ma túy (04 viên thuốc lắc và 01 gam ma túy “khay” với giá 1.600.000 đồng) cho khách tại khu vực địa chỉ 528 đường A, Quận M. Lần giao ma túy này H trả công cho Y 150.000 đồng.

- Lần 4: khoảng 01 giờ ngày 27/4/2022, có một người sử dụng tài khoản Telegram tên Phương L gọi cho H đặt mua 01 chấm (một gam) ma túy “khay”, 02 (hai) viên ma túy thuốc lắc với tổng số tiền 1.200.000 đồng. H nhờ Yđi giao ma túy tại khu vực địa chỉ số 2174 đường B, huyện H. Y đang trên đường đi giao cho người mua ma túy thì bị bắt quả tang (BL: 132 đến 150).

Những lần Võ Hoàng Y phụ giúp Trần Bùi H giao ma túy Y không biết khối lượng ma túy cụ thể của từng lần do H gói ma túy bằng băng keo đen bên ngoài và không nói cho Y biết khối lượng. Tiền mua ma túy thì những người mua ma túy không đưa cho Y mà gặp H đưa sau. Lời khai của H là phù hợp với lời khai của Y (BL: 209 đến 216).

Đối với số ma túy Trần Bùi H nhờ Võ Hoàng Y giao cho người mua ma túy trong 03 lần vào các ngày 21/4/2022 và 22/4/2022 do không thu giữ được ma túy, H và Y trình bày không nhớ đặc điểm, khối lượng cụ thể nên chưa đủ cơ sở để xác định chính xác khối lượng ma túy buộc H và Y phải chịu trách nhiệm về khối lượng ma túy của 03 lần này.

Trần Bùi H khai nhận đã mua ma túy của Hai 03 lần vào các ngày 06/02/2022, 03/3/2022, 09/4/2022, mỗi lần H mua 50 gam (năm mươi gam) ma túy loại “khay” (Ketamine) với giá 30.000.000 đồng và 100 (một trăm) viên ma túy dạng thuốc lắc với giá 160.000 đồng/01 viên. Tuy nhiên do chỉ có lời khai của H, không còn chứng cứ nào khác để xác định nên không có cơ sở để buộc H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 03 lần mua bán này.

Đối với Trần Thu T là bạn gái của Trần Bùi H, thỉnh thoảng T có đến phòng trọ của H để chơi, T không biết việc H cất giấu ma túy tại phòng trọ, cũng không biết và không tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy của Trần Bùi H và Võ Hoàng Y, lời khai của T phù hợp với lời khai của Trần Bùi H và Võ Hoàng Y. Qua xét nghiệm ma túy thì T có kết quả dương tính, T trình bày ngày 23/4/2022, T có sử dụng ma túy dạng thuốc lắc trong một buổi tiệc sinh nhật của bạn tại một quán ăn ở Quận 1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận M xác định T không có liên quan đến vụ án nên đã giao T cho Công an phường L, Quận M xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (BL: 338 đến 342).

Đối với đối tượng tên H1 và những người mua ma túy của Trần Bùi H, do Trần Bùi H và Võ Hoàng Y khai không rõ về nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để xác minh, truy bắt và đề nghị xử lý.

Vật chứng vụ án: Đã được liệt kê theo Phiếu nhập kho vật chứng số 220/PNK/22 ngày 24/6/2022 của Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp (PC10) - Công an thành phố H (BL: 38), gồm:

* Thu giữ của Trần Bùi H:

- 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “vụ 2470/2022 (473/2022), Gói 2”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên và Điều tra viên, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định.

- 01 (một) bóp da màu trắng; 01 (một) cân điện tử; 01 (một) điện thoại di động Iphone màu trắng đen đã qua sử dụng, trên khay sim có số 354864092050344; 01 (một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen đã qua sử dụng, phía sau bên trong máy có ghi số IMEI 1: 356004081598262, số IMEI 2:

356004081598270 và Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng). Trần Bùi H trình bày là số tiền trên H để dành cưới vợ, trong đó mẹ của H cho H 50.000.000 đồng, số tiền 30.000.000 đồng còn lại là tiền H có được từ việc mua bán trái phép chất ma túy.

- 01 (một) xe mô tô biển số 89B1-xxxxx, số khung: RLCUG0610G- Y282193, số máy: G3D4E-296249, kết luận giám định số khung, số máy của xe không thay đổi. Xe do Trần Bùi H đứng tên chủ sở hữu.

- 01 (một) xe mô tô biển số 16P2-xxxxx, số khung: RLCS16S20-9Y053379, số máy: 16S2-053371, kết luận giám định số khung, số máy của xe không thay đổi. Xe do Phạm Văn T đứng tên chủ sở hữu. Qua làm việc, Phạm Văn T trình bày không quen biết với Trần Bùi H và đã bán xe 16P2-xxxxx cho một người không nhớ lai lịch vào khoảng năm 2014. Trần Bùi H trình bày xe này do một người bạn của H tên C (không rõ lai lịch) gửi ở phòng trọ của H nhờ trông coi dùm để C về quê tại Hải Phòng. Thời điểm Trần Bùi H bị bắt thì C chưa đến lấy lại xe nên Cơ quan Công an đã lập biên bản tạm giữ xe để điều tra làm rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố H đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu xe 16P2- xxxxx nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ làm việc.

* Thu giữ của Võ Hoàng Y:

- 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “vụ 2470/2022 (473/2022), Gói 1”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên và Điều tra viên, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định và 01 (một) điện thoại di động Samsung màu đen đã qua sử dụng, phía sau có ghi số IMEI: 358475/77/468665/5.

- 01 (một) xe mô tô biển số 71B4-xxxxx, số khung: RLHJF5833KY552529, số máy: JF86E-0262388, kết luận giám định số khung, số máy của xe không thay đổi. Xe do vợ của Võ Hoàng Y tên Lê Thị Kim H đứng tên chủ sở hữu. Lê Thị Kim H đưa xe 71B4-xxxxx cho Võ Hoàng Y để Y làm nghề chạy xe giao hàng công nghệ tại Thành phố H. Việc Võ Hoàng Y sử dụng xe 71B4-xxxxx để làm phương tiện đi giao ma túy thì Lê Thị Kim H không biết.

Tại bản cáo trạng số: 503/CTr-VKS-P1 ngày 17/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố các bị cáo: Trần Bùi H, về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Võ Hoàng Y, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, các tình tiết định khung, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm h khoản 4, Khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Trần Bùi H mức án 20 năm tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung từ 20 triệu đến 30 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm b khoản 2, Khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Võ Hoàng Y mức án từ 07 năm đến 08 năm tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung 10 triệu đến 15 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

- Về vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật sư Đoàn Anh Phương V bào chữa cho bị cáo Trần Bùi H thống nhất với tội danh và khung hình phạt Viện kiểm sát truy tố nên không tranh luận. Luật sư chỉ phân tích về các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và sau khi bị bắt tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra trong việc phát hiện và giải quyết vụ án về hành vi phạm tội của Trần Bùi H; Mức án Viện kiểm sát đề nghị xử phạt là nghiêm khắc, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án khoan hồng, dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, đã đủ tác dụng để răn đe giáo dục bị cáo.

Bị cáo Trần Bùi H thống nhất với ý kiến của Luật sư bào chữa cho mình nên không tranh luận bổ sung. Bị cáo Võ Hoàng Y không bào chữa, tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Trong phần nói lời sau cùng, các bị cáo xin được hưởng mức án khoan hồng để có cơ hội sửa chữa, sớm chấp hành xong bản án và làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Bùi H và Võ Hoàng Y đã khai nhận toàn bộ hành vi “Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy” của mình, nội dung phù hợp với bản cáo của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố.

Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo Trần Bùi H và Võ Hoàng Y tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, về cơ bản phù hợp với nhau; phù hợp với: các biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản tạm giữ đồ vật – tài liệu, biên bản niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến, cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Vật chứng là ma túy thu giữ của các bị cáo Trần Bùi H và Võ Hoàng Y trong vụ án, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định và kết quả thể hiện tại các bản kết luận giám định số: 2470/KL-KTHS ngày 05/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố H (BL: 26).

Xét, đã có đủ cơ sở để kết luận: Trần Bùi H đã mua ma túy của đối tượng tên H1 (không rõ lai lịch) 03 lần về cất giấu và bán lại cho người khác kiếm lời; Ngày 27/4/2022, H đưa cho Võ Hoàng Y 1,0293 gam, loại MDMA và 0,9684 gam, loại Ketamine để đi bán cho người mua tại hẻm số 2174 đường Y, thị trấn S huyện T, Thành phố H thì bị phát hiện bắt quả tang; Khám xét chỗ ở của Trần Bùi H (địa chỉ 80 đường số 49, phường L, Quận M, Thành phố H) thu giữ toàn bộ số ma túy H đang cất giữ trái phép nhằm bán cho người khác là 46,5253 gam, loại Ketamine và 97,1264 gam, loại MDMA. Hành vi trên của các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, cụ thể:

- Bị cáo Võ Hoàng Y phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy bị bắt quả tang thu giữ gồm: 1,0293 gam, loại MDMA và 0,9684 gam, loại Ketamine); bị cáo Y phải chịu trách nhiệm đối với 03 lần mua bán ma túy trước đó vào các ngày 21/4 và 22/4/2022, mặc dù những lần này không xác định được người mua, khối lượng và loại ma túy nhưng đủ căn cứ để xác định bị cáo đã có hành vi phạm tội 02 lần trở lên, là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

- Bị cáo Trần Bùi H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy bị phát hiện bắt giữ gồm: 97,1264 gam loại MDMA và 46,5253 gam loại Ketamine) và khối lượng ma túy giao cho bị cáo Y bán gồm: 1,0293 gam loại MDMA và 0,9684 gam loại Ketamine), thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Bùi H là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội và của bị cáo Võ Hoàng Y là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm về ma túy và tệ nạn xã hội khác; gây mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng với động cơ tham lam, hám lợi bất chính của bản thân, vẫn bất chấp sự nghiêm cấm của Nhà nước để cố ý phạm tội.

Xét bị cáo Trần Bùi H trong thời gian mua bán trái phép chất ma túy tính đến ngày bị bắt, đã nhiều lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, trong đó, mỗi lần đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm và chưa bị xử lý, nên còn thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong vụ án, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có đồng phạm, phân công vai trò nhưng không có tổ chức, cụ thể: Bị cáo Trần Bùi H giữ vai trò chính, cung cấp ma túy cho bị cáo Võ Hoàng Y đi giao cho người mua, bị cáo Y là người thực hành, giúp sức tích cực.

Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, về hình phạt phải nghiêm minh, cần phải có một thời gian đủ dài cách ly ra khỏi xã hội tương ứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, mới đủ tác dụng để răn đe giáo dục từng bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải; để giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: bị cáo Trần Bùi H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” để thu lợi bất chính nên cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để buộc bị cáo nộp phạt một số tiền nhất định sung ngân sách Nhà nước. Riêng bị cáo Võ Hoàng Y chỉ đồng phạm với vai trò giúp sức, không hưởng lợi từ hành vi phạm tội nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố để xét xử đối với các bị cáo Trần Bùi H và Võ Hoàng Y là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt đề nghị xử phạt đối với từng bị cáo phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo nên được chấp nhận.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Bùi H về tình tiết giảm nhẹ phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Tuy nhiên, về mức hình phạt đề nghị xử phạt bị cáo Trần Bùi H dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật như nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên không có cơ sở để được chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xét: Vật chứng là ma túy còn lại sau giám định, các đồ vật là công cụ phạm tội dụng cụ dùng để phân chia, sử dụng, cất giấu ma túy và không có giá trị sử dụng thì tịch thu tiêu hủy. Đối với tài sản là phương tiện liên lạc và tiền thu giữ trong vụ án, qua điều tra xác định là phương tiện liên lạc dùng phạm tội thì tịch thu sung quỹ Nhà nước. Riêng đối với tài sản và tiền thu giữ của các bị cáo, qua điều tra không chứng minh liên quan tội phạm nên trả lại cho các bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án về tài sản. Cụ thể như sau:

1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “vụ 2470/2022 (473/2022), Gói 2”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên và Điều tra viên, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “vụ 2470/2022 (473/2022), Gói 1”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên và Điều tra viên, bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) bóp da màu trắng.

2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động Iphone màu trắng đen đã qua sử dụng, trên khay sim có số 354864092050344; 01 (một) điện thoại di động Samsung màu đen đã qua sử dụng, phía sau có ghi số IMEI:

358475/77/468665/5; 01 (một) cân điện tử; số tiền 30.000.000 đồng (trong số 80.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Trần Bùi H).

3. Trả lại cho:

- Bị cáo Trần Bùi H: 01 (một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen đã qua sử dụng, phía sau bên trong máy có ghi số IMEI 1: 356004081598262, số IMEI 2: 356004081598270; 01 (một) xe mô tô biển số 89B1-xxxxx, số khung: RLCUG0610G-Y282193, số máy: G3D4E-296249; số tiền 50.000.000 đồng (trong số 80.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Trần Bùi H) nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- Bà Lê Thị Kim H 01 (một) xe mô tô biển số 71B4-xxxxx, số khung: RLHJF5833KY552529, số máy: JF86E-0262388;

4. Tiếp tục đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 (một) năm để tìm chủ sở hữu hợp pháp, hết thời hạn trên nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô biển số 16P2-xxxxx, số khung: RLCS16S20-9Y053379, số máy: 16S2-053371.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52;

điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Bùi H 20 (hai mươi năm) tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 27/4/2022.

- Phạt bổ sung bị cáo Trần Bùi H 10.000.000 (mười triệu) đồng sung ngân sách Nhà nước.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Võ Hoàng Y 07 (bảy) năm tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 27/4/2022.

- Miễn khoản tiền phạt bổ sung cho bị cáo Võ Hoàng Y.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “vụ 2470/2022 (473/2022), Gói 1”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Quốc (PC09), Điều tra viên Đặng Công Thành (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định;

- 01 (một) gói niêm phong ghi chữ “vụ 2470/2022 (473/2022), Gói 2”, có chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Quốc (PC09), Điều tra viên Đặng Công Thành (PC04), bên trong là mẫu vật còn lại sau giám định;

- 01 (một) cái bóp da màu trắng;

2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone màu trắng đen đã qua sử dụng, trên khay sim có số 354864092050344;

- 01 (một) điện thoại di động Samsung màu đen đã qua sử dụng, phía sau có ghi số IMEI: 358475/77/468665/5;

- 01 (một) cân điện tử;

- Số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng;

3. Trả lại cho:

- Bị cáo Trần Bùi H: 01 (một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen đã qua sử dụng, số IMEI 1: 356004081598262, số IMEI 2: 356004081598270; 01 (một) xe hai bánh gắn máy màu xanh bạc; Nhãn hiệu: Yamaha; số loại: Exciter, dung tích xilanh: 149,8; biển số 89B1-xxxxx, số khung: RLCUG0610GY282193, số máy: G3D4E-296249; số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- Bà Lê Thị Kim H 01 (một) xe hai bánh gắn máy màu xanh nâu đen; Nhãn hiệu: Honda; số loại: Vision; Dung tích xilanh 108; biển số 71B4-xxxxx, số khung: RLHJF5833KY552529, số máy: JF86E-0262388;

4. Tiếp tục đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 (một) năm để tìm chủ sở hữu hợp pháp, hết thời hạn trên nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung và ngân sách nhà nước: 01 (một) xe gắn máy hai bánh màu đỏ đen; Nhãn hiệu: Yamaha; Số loại: Taurus; Dung tích xilanh 113; biển số 16P2-xxxxx, số khung: RLCS16S209Y53379, số máy: 16S2-053371;

(Theo biên bản tang tài vật số: NK2023/029 ngày 28/10/2022 của Cục thi hành án Dân sự Thành phố H).

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 173/2023/HS-ST

Số hiệu:173/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về