TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 173/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 179/2020/TLST- HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 186/ 2020/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Phước Vinh H, sinh ngày 10/3/1982 tại thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 290/6/17 Nơ Trang Long, phường A, quận BT, Tp.Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 67/58/15 đường số 38, khu phố 8, phường H, quận TĐ, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huy Th và bà Đinh Thị Thanh M; chưa có vợ con; tiền án: Năm 2008 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 342/2008/HSST ngày 19/11/2008; Năm 2013 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 205/2013/HSST ngày 24/10/2013; Năm 2016 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 281/2016/HSST ngày 10/11/2016; ngày 11/01/2019 chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự: không; nhân thân: ngày 11/7/2000 Toà án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 09 tháng tù về tội Cướp giật tài sản của công dân; Ngày 06/9/2000 Toà án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp giật tài sản của công dân, sau đó bị cáo kháng cáo. Ngày 22/12/2000 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 24 tháng tù, tổng hợp với bản án ngày 11/7/2000 của Toà án nhân dân quận Bình Thạnh buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 33 tháng tù; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 26/2/2020 (hiện đang tạm giam tại công an huyện Hóc Môn). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2/ Lưu Quế N, sinh ngày 26/8/1992 tại thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 47/20/3 tổ 6, ấp 2, xã N, huyện H, Tp.Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 171/11/1 đường TX52, tổ 47, khu phố 4, phường T, quận M, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lưu Văn H và bà Tô Thu H; có chồng tên Võ Phan Hiền Th; có 01 người con sinh năm 2010; tiền án: không; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 26/2/2020 (hiện đang tạm giam tại công an huyện Hóc Môn). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N có quan hệ bạn bè ngoài xã hội, cả hai đều nghiện ma túy, H không có việc làm nên bắt đầu bán ma túy cho người nghiện từ 15/02/2020. Khoảng 10 ngày trước khi bị bắt, H nói với N là nếu có người nghiện cần mua ma túy thì báo cho H, N sẽ hưởng phần lợi nhuận chênh lệch.
Khoảng 16 giờ ngày 26/02/2020, N đang ở nhà của mình tại số 171/11/1 đường TX52, khu phố 4, phường T, quận M, thành phố Hồ Chí Minh thì có người nghiện tên Tý (không rõ lai lịch) gọi điện thoại cho N đặt mua 01 hộp ma túy đá với giá 4.200.000đồng. N đồng ý và hẹn giao ma túy cho Tý tại trước khách sạn Vũ Hiệp (địa chỉ 23/5 Nguyễn Ảnh Thủ, xã B, huyện H, thành phố Hồ Chí Minh). Sau đó, N điện thoại cho H nói có khách cần mua 01 hộp 10 ma túy đá với giá 4.200.000đồng. H đồng ý. H điều khiển xe máy đến khu vực quận 8 mua của người thanh niên tên Dũng (không rõ lai lịch) 01 hộp 10 ma túy đá giá 4.000.000đồng, sau đó H đến nhà N và chở N đến trước khách sạn Vũ Hiệp để giao ma túy. Trên đường đi, H đưa gói ma túy cho N và N cất giấu trong túi áo khoác bên phải phía trước đang mặc. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, khi H và N vừa đến trước khách sạn Vũ Hiệp thị bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.
Trong quá trình điều tra, Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N đã khai nhận hành vi phạm tội cùng nhau mua bán trái phép chất ma túy như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của H và N phù hợp với nhau (việc ghi lời khai có ghi âm, ghi hình). Đến ngày 06/3/2020, Nguyễn Phước Vinh H thay đổi lời khai và không thừa hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình. H cho rằng số ma túy thu được khi bị bắt quả tang là của N, H không biết N đi bán ma túy cho người nghiện. Tuy nhiên, căn cứ vào các chứng cứ thu thập được, như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản đối chất, kết quả giám định, lời khai ban đầu của H phù hợp với lời khai nhận tội của N và các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, đủ cơ sở xác định Nguyễn Phước Vinh H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với vai trò chủ mưu, cầm đầu trong vụ án.
Vật chứng thu giữ của N:
- 01 gói niêm phong ghi vụ số 376/20 (gói1) bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Lưu Quế N, Nguyễn Phước Vinh H và hình dấu công an xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn;
- 01 ĐTDĐ hiệu Huawei, màu xanh đen, model LDN-LX2 có gắn sim số 0933567565 (đã qua sử dụng). N sử dụng điện thoại này liên hệ cá nhân và mua bán ma túy; (BL 51-53) Khám xét nhà N tại địa chỉ 171/11/1 đường TX52, khu phố 4, phường T, Quận M, thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ:
- 01 gói niêm phong ghi vụ số 376/20 (gói 2) bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Lưu Quế N và hình dấu công an phường T, quận M;
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, gồm bình nhựa, đoạn ống hút nhỏ, nỏ thủy tinh. Đây là dụng cụ sử dụng ma túy đá N cất giấu để sử dụng một mình tại phòng trọ của N;
- 02 đoạn ống thủy tinh (nỏ gắn vào bình nhựa dùng để sử dụng ma túy đá);
- 01 cân tiểu ly N mượn của một người bạn tên Tr (không rõ lai lịch) để cân phân ma túy ra bán cho người nghiện nhưng chưa sử dụng;
- 02 cây kéo và một số bịch nylon không chứa gì; (BL 75-79) Vật chứng thu giữ của H: (BL 51-53) - 01 ĐTDĐ hiệu Samsung, màu xanh đen, có số imei 357966106166375 có gắn sim 0933939658 (đã qua sử dụng). Đây là điện thoại H sử dụng liên hệ cá nhân và mua bán ma túy;
- 01 cái bóp da màu đen, bên trong không chứa gì;
- 01 xe gắn máy BKS 59V2-386.24, có số khung: RLHJF6303FZ472716, số máy: JF63E1472780 do Nguyễn Phước Vinh H chở Lưu Quế N đi giao bán ma túy. H khai chiếc xe này của một người bạn tên Hùng (không rõ lai lịch) ở quận 12 cầm cố cho H với số tiền 3.000.000đồng cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần, khi nào có tiền sẽ chuộc lại.
Xác minh số khung và số máy của chiếc xe bị tạm giữ tại Đội Cảnh sát giao thông – Công an huyện Hóc Môn cung cấp: Chiếc xe có biển số thật là 59G1- 163-19 của chị Lê Thị D (Sinh năm 1985; HKTT: 38/1 khu phố 3, phường T Quận M, thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên đăng ký xe. Qua xác minh tại Công an phường T, quận M tại địa chỉ 38/1 khu phố 3, phường T không có ai tên Lê Thị D đăng ký tạm trú hay lưu trú tại đây. Ngày 21/5/2020, Cơ quan điều tra đã đăng báo Thanh niên (Số 142) để tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe này nhưng đến nay chưa có ai liên hệ giải quyết. (BL 90,91B, 91C) Tại Bản kết luận giám định số 376/KLGĐ-H ngày 05/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 10,0234g; loại Methamphetamine.(gói niêm phong ghi vụ số 376/20 (1).
- Gói 2: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định có khối lượng 3,2833g, không tìm thấy ma túy. (gói niêm phong ghi vụ số 376/20 (2).
Tại bản cáo trạng số 122/CT-VKS-HS ngày 07 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Phước Vinh H về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i, q, khỏan 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015(được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Truy tố bị cáo Lưu Quế N về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i, khỏan 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015(được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Sau đây được gọi tắt là Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh sau khi nêu lại nội dung vụ án, phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, điểm q, khỏan 2 Điều 251 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Phước Vinh H từ 10(mười) năm đến 12(mười hai) năm tù.
- Đề nghị áp dụng điểm i, khỏan 2 Điều 251 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lưu Quế N từ 07(bảy) năm đến 08(tám) năm tù.
Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong ghi vụ số 376/20 (gói 1) và 376/20 (gói 2); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm bình nhựa, đoạn ống hút nhỏ, nỏ thủy tinh; 02 đọan ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly; 02 cây kéo và một số bịch nylon không chứa gì; 01 cái bóp da màu đen bên trong không chứa gì ; Tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Huawei, màu xanh đen, model LDN-LX2 và 01 điện thoại di động hiệu hiệu Samsung, màu đen xanh. Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy biển số 59V2-386.24, có số khung: RLHJF6303FZ472716, số máy: JF63E1472780 để xử lý giải quyết theo diện tài sản vắng chủ.
Tại phiên tòa bị cáo H chối tội không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo N khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Lưu Quế N tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, bản kết luận điều tra của công an huyện Hóc Môn, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn và đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Riêng bị cáo Nguyễn Phước Vinh H quanh co chối tội và không thừa nhận hành vi mua bán ma túy, có sự thay đổi lời khai so với ban đầu. Tuy nhiên tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai người làm chứng, biên bản đối chất, biên bản ghi hình, ghi âm, biên bản tự khai ngày 26/02/2020, biên bản ghi lời khai, bị cáo H đều thừa nhận việc mua bán ma túy. Mặc dù bị cáo H quanh co chối tội nhưng Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: khỏang 18 giờ ngày 26/02/2020, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an huyện Hóc Môn kết hợp với Công an xã Bà Điểm tuần tra trên địa bàn, khi đến trước nhà nghỉ Vũ Hiệp số 23/5 Nguyễn Ảnh Thủ, xã B, huyện H phát hiện bắt quả tang các bị cáo H và N có hành vi cất giấu ma túy nhằm mục đích bán cho người nghiện. Thu giữ trong túi áo khoác của bị cáo N 01 gói nylon chứa tinh thể không màu có khối lượng10,0234g lọai MA(ký hiệu mẫu m1). Căn cứ bản kết luận giám định số 376/KLGĐ-H ngày 05/3/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 10,0234g (một không phẩy không hai ba bốn gam) loại Methamphetamine; Gói 2: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định có khối lượng 3,2833g( ba phẩy hai tám ba ba gam) không tìm thấy ma túy.
Hành vi như đã nêu trên của các bị cáo Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i, khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự”. Riêng bị cáo H có nhiều tiền án, đã tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên hành vi của bị cáo H thuộc tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm q, khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố để xét xử các bị cáo theo điều luật đã viện dẫn trên là đúng người, đúng tội, nên buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
[3] Các bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo thừa hiểu rằng hành vi mua bán trái phép chất ma túy để thu lợi bất chính là thực sự gây nguy hiểm cho xã hội, chống lại chủ trương bài trừ ma túy của Đảng và Nhà nước, làm lây lan tệ nạn hút chích ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương, là một trong các nguyên nhân gây nên các loại tội phạm khác nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Bản thân các bị cáo là đối tượng nghiện heroine nên hơn ai hết các bị cáo ý thức được tác hại của heroine, nhưng các bị cáo vẫn tiếp tục bán ma túy cho người khác góp phần gieo rắc cái chết trắng cho xã hội. Riêng bị cáo H có nhiều tiền án, lẽ ra sau khi học tập, cải tạo trở về bị cáo H phải cố gắng tu dưỡng làm ăn để trở thành công dân tốt, nhưng do bản tính lười lao động lại muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố tình lao vào con đường phạm tội. Trong vụ án này bị cáo H là người trực tiếp đưa ma túy cho bị cáo N cất giữ vào túi áo rồi chở bị cáo N đến điểm hẹn để giao ma túy cho đối tượng nghiện. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà các bị cáo đã gây ra nhằm có tác dụng cải tạo và giáo dục các bị cáo thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét:
[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó áp dụng điểm s khoản 1, khỏan 2 Điều 51 Bộ luật hình sự có phần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Riêng bị cáo H lúc ban đầu khai nhận hành vi phạm tội của mình nhưng sau đó thay đổi lời khai và không nhận tội, do đó bị cáo H không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
[6] Ngoài hình phạt chính Hội đồng xét xử còn quyết định áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự phạt mỗi bị cáo 5.000.000đồng nộp vào Ngân sách Nhà nước.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 02 gói niêm phong ghi vụ số 376/20 (gói 1) và 376/20 (gói 2) bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Lưu Quế N, Nguyễn Phước Vinh H, điều tra viên Nguyễn Hòang Y và giám định viên Lê Thị H; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm bình nhựa, đoạn ống hút nhỏ, nỏ thủy tinh; 02 đọan ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly; 02 cây kéo và một số bịch nylon không chứa gì; 01 cái bóp da màu đen bên trong không chứa gì là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy;
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Huawei, màu xanh đen, model LDN- LX2 và 01 điện thoại di động hiệu hiệu Samsung, màu đen xanh, các bị cáo dùng để liên lạc liên quan đến việc mua bán ma túy nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 xe gắn máy BKS 59V2-386.24, có số khung: RLHJF6303FZ472716, số máy: JF63E1472780 do bị cáo Nguyễn Phước Vinh H chở bị cáo Lưu Quế N đi giao bán ma túy. Bị cáo H khai chiếc xe này của một người bạn tên Hùng (không rõ lai lịch) ở quận 12 cầm cố cho bị cáo H với số tiền 3.000.000đồng cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần, khi nào có tiền sẽ chuộc lại. Xác minh số khung và số máy của chiếc xe bị tạm giữ tại Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Hóc Môn cung cấp: Chiếc xe có biển số thật là 59G1-163-19 của chị Lê Thị D (sinh năm 1985; HKTT: 38/1 khu phố 3, phường T, quận M, thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên đăng ký xe. Qua xác minh tại Công an phường T, quận M tại địa chỉ 38/1 khu phố 3, phường T không có ai tên Lê Thị D đăng ký tạm trú hay lưu trú tại đây. Ngày 21/5/2020, Cơ quan điều tra đã đăng báo Thanh niên (Số 142) để tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe này nhưng đến nay chưa có ai liên hệ giải quyết, nên Hội đồng xét xử xét thấy giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu để xử lý giải quyết theo diện tài sản vắng chủ.
[8] Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
- Căn cứ các điểm i, q, khỏan 2 Điều 251; các Điều 32, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước Vinh H 09(chín) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2020;
- Căn cứ điểm i, khỏan 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 32, 38, 50, 58 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lưu Quế N 07(bảy) năm 06(sáu) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2020;
- Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự. Phạt các bị cáo Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N mỗi bị cáo phải nộp 5.000.000đ(năm triệu đồng) vào N sách nhà nước;
- Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tạm giam các bị cáo Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;
- Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
- Căn cứ điểm a, điểm c, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu huỷ 02 gói niêm phong ghi vụ số 376/20(gói 1) và 376/20 (gói 2) bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Lưu Quế N, Nguyễn Phước Vinh H, điều tra viên Nguyễn Hòang Y và giám định viên Lê Thị H; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm bình nhựa, đoạn ống hút nhỏ, nỏ thủy tinh; 02 đọan ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly; 02 cây kéo và một số bịch nylon không chứa gì; 01 cái bóp da màu đen bên trong không chứa gì;
Tịch thu nộp Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Huawei, màu xanh đen, model LDN-LX2 và 01 điện thoại di động hiệu hiệu Samsung, màu đen xanh, có số imei 357966106166375;
Giao Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để truy tìm chủ sở hữu đối với 01 xe gắn máy biển số 59V2-386.24, có số khung: RLHJF6303FZ472716, số máy: JF63E1472780. Trong thời hạn 01(một) năm kể từ ngày thông báo, nếu có người xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại cho họ. Sau 01(một) năm kể từ ngày thông báo mà không xác định được ai là chủ sở hữu thì tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước;
(Tang vật được ghi theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh);
- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Phước Vinh H và Lưu Quế N mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự;
- Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xin xét xử phúc thẩm
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 173/2020/HS-ST
Số hiệu: | 173/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về