Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 172/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 172/2023/HS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2023/QĐXXST-HS ngày 18/7/2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn A, sinh năm 1997 tại tỉnh Vĩnh Long; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 5B, khóm 5, phường 9, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở: Phòng 48, nhà trọ Đ, 57/1 khu phố B, phường G, thành phố Ttỉnh Bình Dương; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông Lê Minh Hoàng, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị Bé, sinh năm 1971; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 09/11/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” đối với hành vi thực hiện ngày 07/6/2018. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/2020, chấp hành xong án phí ngày 14/6/2019; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18/12/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đặng Q, sinh năm 1995, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 16, ấp 1, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Khu phố 4, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: tài xế; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Đặng Văn P, (đã chết) và bà Võ Thị Kiều T, sinh năm 1974; bị cáo có vợ là Huỳnh Thị Ngọc Trinh, sinh năm 1993 và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18/12/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 2000; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn A và Đăng Q đều là đối tượng nghiện ma tuý đá (loại Methamphetamie). Để có ma tuý sử dụng và có tiền tiêu xài, từ giữa tháng 12/2022, A và V bắt đầu thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý như sau:

Tối ngày 15/12/2022, Nguyễn Thanh T (sinh năm 2000), điện thoại cho V qua Zalo hỏi mua 50 số ma tuý đá và hẹn đem ma tuý đến giao tại nhà của T. Sau đó, V gọi điện thoại cho A qua mang zalo hỏi mua 50 số ma tuý đá, A đồng ý rồi đi đến đoạn đường Phan Văn Hớn thuộc Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh gặp Đức (không rõ lai lịch) mua được 50 số ma tuý đá với giá 2.400.000 đồng. Sáng ngày 16/12/2022, A điều khiển xe mô tô biển số 64B2- 452.xx đến đoạn đường Chu Văn An, thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bán cho V gói ma tuý đá mua được của Đức với giá 2.500.000 đồng. Do không có tiền nên V nhờ A chở V đi bán ma tuý cho T lấy tiền trả A thì A đồng ý. Sau đó, A điều khiển xe mô tô biển số 6-452.37 chở V đến nhà của T thuộc ấp Lồ Ồ, xã An Tây, C, V bán gói ma tuý mua được của A cho T với giá 3.000.000 đồng. V lấy số tiền 2.500.000 đồng trả cho A, số tiền còn lại V tiêu xài hết.

Khoảng 16 giờ ngày 17/12/2022, V tiếp tục liên lạc với A hỏi mua 75 số ma tuý đá. A đồng ý rồi tiếp tục đi đến đoạn đường Phan Văn Hớn thuộc Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, gặp Đức mua được 02 túi nylon miệng kéo dính chứa ma tuý đá, gồm 01 túi 25 số và 01 tuý 50 số. Sau khi mua được ma tuý, A nhắn tin qua mang zalo cho V báo giá số ma tuý V hỏi mua là 3.500.000 đồng. Sau đó, A đến khu vực vòng xoay An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bán thiếu cho V túi ma tuý 25 số, rồi V đến bãi đất trống gần đó lấy ra một phần sử dụng, phần còn lại V làm rơi mất. Sau khi bán ma tuý cho V, A đem túi ma tuý 50 số đến một đoạn đường vắng, lấy ra một ít bỏ vào 01 đoạn ống hút hàn kín hai đầu rồi cất giấu vào khẩu T y tế của A đang đeo nhằm mục đích khi nào có ai mua thì bán, số còn lại trong túi thì A cất giấu vào hốc cây gần đó.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Thanh T tiếp tục nhắn tin qua cho V hỏi mua 50 số ma tuý đá giá 3.000.000 đồng và hẹn đến giao tại nhà của T. V liền nhắn tin cho A hỏi lấy 50 số ma tuý còn lại thì A đồng ý và hẹn đến đoạn đường Chu Văn An thuộc thành phố Thuận A để lấy ma tuý. Sau đó, V đến nơi thì được A đưa 01 túi miệng kéo dính, V cầm túi ma tuý trong lòng bàn tay phải rồi nhờ A chở đi bán ma tuý lấy tiền trả A thì A đồng ý. Khoảng 01 giờ ngày 18/12/2022, A điều khiển xe mô tô chở V đến đoạn đường ĐT744 thuộc ấp Phú Thứ, xã Phú An, C, tỉnh Bình Dương thì bị lực lương công an xã Phú An yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, lực lượng công an phát hiện bên trong lớp khẩu T y tế của A đang đeo có 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu chứa ma tuý đá, còn V tự giao nộp 01 túi nylon miệng kéo dính chứa ma tuý đá vừa mua được của A để mang đi bán cho T.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 đoạn ống hút nhựa bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (M1) thu giữ của Nguyễn A;

+ 01 túi nylon miệng kéo dính, có viền đỏ, kích thước 04 x 06cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (M2) do Đặng Q giao nộp;

+ 01 xe mô tô hiệu Winner biển số 64…2-452.37;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung A23 màu đen gắn sim số 0907.931.xxx và số 0777.712.xxx của Nguyễn A;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu bạc gắn sim 0828.340.1xx của Đặng Q;

Theo Kết luận giám định số 11/MT-PC09 ngày 26/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể (bị thu giữ) gửi đi giám định là ma túy có khối lượng M1 = 0,0640 gam, M2 = 4,9540 gam loại Methamphetamine. Mẫu vật sau khi giám định hoàn lại M1 = 0,0288 gam, M2 = 4,8294 gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn A và Đặng Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với các chứng cứ tài liệu thu thập được trong hồ sơ vụ án. Riêng Nguyễn Thanh T khai số ma tuý mua được của V ngày 15/12/2022, T đã sử dụng hết, còn ngày 17/12/2022 thì T chưa mua được ma tuý.

Tại bản Cáo trạng số 154/CT- VKS-BC ngày 29/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn A về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Truy tố bị cáo Đặng Q về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân C trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn A về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đặng Q về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo A và bị cáo V. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn A mức án từ 08 đến 09 năm tù; bị cáo Đặng Q mức án từ 07 đến 08 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong ghi số 11/PC09 có chữ ký hình dấu đỏ, bên trong có chứa M1 = 0,0288 gam, M2 = 4,8294 gam.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 64B2- 452.xx xe do Nguyễn A đứng tên đăng ký, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A23 màu đen gắn sim số 0907.931.xxx và số 0777.712.xxx của Nguyễn Thị Tường A; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu bạc gắn sim 0828.340.1xx của Đặng Q.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Số tiền 2.500.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn A và số tiền 3.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy của Đặng Q.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và thừa nhận hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo cùng những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an C, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân C trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện: Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 18/12/2022 và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Do cần tiền tiêu xài và mua ma tuý sử dụng, từ ngày 16/12/2022 đến ngày 17/12/2022, Nguyễn A đã có hành vi 02 lần bán ma tuý (loại Methamphetamine) cho Đặng Q để V bán lại cho người khác nhằm hưởng tiền chênh lệch như sau:

- Sáng ngày 16/12/2022, Nguyễn A có hành vi bán cho Đặng Q 50 số ma tuý loại Methamphetamine với giá 2.500.000 đồng, thu lợi được 100.000 đồng. Sau đó, V nhờ A chở V đến nhà của Nguyễn Thanh T ở ấp Lồ Ồ, xã An Tây, C bán lại ma tuý cho T được 3.000.000 đồng, thu lợi được 500.000 đồng.

- Khoảng 16 giờ ngày 17/12/2022, Nguyễn A có hành vi bán thiếu cho Đặng Q 25 số loại Methamphetamine. Sau đó, V lấy một phần sử dụng, phần còn lại bị rơi mất. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, A tiếp tục bán cho V 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 4,9540 gam ma tuý loại Methamphetamine, rồi điều khiển xe chở V đem đi bán cho Nguyễn Thanh T, nhưng trên đường đi đến khu vực ấp Phú Thứ, xã Phú An, C, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng công an kiểm tra, V đã tự giao nộp số ma tuý mua được của A. Ngoài ra, lực lượng công an còn phát hiện thu giữ trên người của A 0,0640 gam ma tuý loại Methamphetamine, cất giấu nhằm mục đích bán lại.

Tổng số tiền dùng để mua bán ma túy và thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo A là 2.500.000 đồng, của V là 3.000.000 đồng.

Do đó, bản Cáo trạng số 154/CT- VKS-BC ngày 29/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn A về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), truy tố bị cáo Đặng Q về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Các bị cáo hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa P. Ngoài ra, ma túy là một loại chất độc dược gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng và cũng là mầm mống lan truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS, .... vv. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác.

Các bị cáo là thanh niên còn trẻ, có sức khỏe, về nhận thức các bị cáo biết được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì tham lam, tư lợi, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả xảy ra.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

[4] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo A là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị phạt 03 năm tù nhưng bị cáo đã không sửa đổi, cải tạo bản thân mà tiếp tục tái nghiện và dấn thân vào con đường phạm tội. Vì vậy, trong lần phạm tội này cần có một mức hình phạt thật tương xứng đối với bị cáo để giáo dục, răn đe bị cáo trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Xét tính chất đồng phạm, đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo A là người trực tiếp đi mua ma túy về tự phân chia và bán lại ma túy cho V để hưởng tiền chêch lệch; bị cáo V là người mua lại ma túy từ A và đem bán lại cho T để hưởng tiền chênh lệch. Như vậy, vai trò của bị cáo A là cao hơn bị cáo V nên khi quyết định hình phạt thì bị cáo A cao hơn bị cáo V.

[7] Xét thấy, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với mẫu tinh thể (bị thu giữ) gửi đi giám định là ma túy có khối lượng M1 = 0,0640 gam, M2 = 4,9540 gam loại Methamphetamine. Mẫu vật sau khi giám định hoàn lại M1 = 0,0288 gam, M2 = 4,8294 gam. Xét thấy, đây là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với các tài sản thu giữ được gồm: 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 64B2- 452.xx xe do Nguyễn A đứng tên đăng ký, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A23 màu đen gắn sim số 0907.931.xxx và số 0777.712.xxx của Nguyễn Thị Tường A, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu bạc gắn sim 0828.340.1xx của Đặng Q. Xét thấy đây là những P tiện, công cụ sử dụng vào việc phạm tội, còn có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước theo điểm a, b khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với số tiền dùng để mua bán ma túy và thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo An là 2.500.000 đồng, của V là 3.000.000 đồng. Xét thấy, đây là tiền mua bán ma túy và tiền thu lợi bất chính mà các bị cáo Nguyễn A và Đặng Q dùng vào việc mua bán trái phép chất ma túy được nên cần buộc các bị cáo phải nộp lại để sung vào công quỹ nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Đối với đối tượng tên Đức (không rõ lai lịch) bán mua tuý cho Nguyễn A, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thanh T có hành vi 02 lần mua ma tuý của Đặng Q, do T đã sử dụng hết lần đầu nên không có cơ sở để xem xét, còn lần thứ 02 T chưa mua được ma tuý, chưa giao nhận tiền và chưa xác định được địa điểm giao nhận ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn A và Đặng Q phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn A 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 18/12/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đặng Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 18/12/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 11/PC09 (M1) và 01 bì thư được niêm phong bên ngoài ghi số 11/PC09 (M2) có chữ ký và hình dấu đỏ của Công an xã Phú An, bên trong có chứa M1 = 0,0288 gam, M2 = 4,8294 gam. (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/7/2023 giữa Chi cục thi hành án dân sự C và Công an C).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước:

+ 01 xe mô tô hiệu Winner, biển số 64B2- 452.xx xe do Nguyễn A đứng tên đăng ký;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung A23 màu đen gắn sim số 0907.931.xxx và số 0777.712.xxx của Nguyễn Thị Tường A;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, màu bạc gắn sim 0828.340.1xx của Đặng Q.

+ Buộc bị cáo Nguyễn A nộp lại số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) để nộp ngân sách nhà nước;

+ Buộc bị cáo Đặng Q nộp lại số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/7/2023 giữa Chi cục thi hành án dân sự C và Công an C).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn A và Đặng Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 172/2023/HS-ST

Số hiệu:172/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về