Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 17/05/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái mở phiên tòa trực tuyến công khai tại 02 điểm cầu (Điểm cầu trung tâm đạt tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái; Điểm cầu thành phần đặt tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái) để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 15/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo: Giàng A R (tên gọi khác Giàng Xú R).

Tại điểm cầu thành phần đặt tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên bái (Địa chỉ: Tổ 1, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái).

Những người tham gia tố tụng gồm có:

Bị cáo Giàng A R (tên gọi khác: Giàng Xú R); Sinh ngày 29-12-1946 tại huyện M, T.Yên Bái; Chỗ ở: Bản D, xã D, huyện M, tỉnh Yên Bái; dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: hưu trí; trình độ học vấn: Xóa mù chữ; con ông Giàng Dua H (đã chết) và bà Thào Thị C (đã chết); vợ là Lý Thị C1 - Sinh năm 1950; có 5 con lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất sinh năm 1996; hiện tại mẹ, vợ và các con cư trú tại Bản D, xã D, huyện M, tỉnh Yên Bái; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 08/2003/HSST ngày 24-2-2003 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Yên Bái xử phạt 02 năm tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); Tại bản án số 23/2007/HSST ngày 13-3-2007 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11-3-2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị Ngọc P – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái; Có mặt.

- Người phiên dịch: Ông Giàng A K - Cán bộ Ban Dân vận tỉnh ủy Yên Bái. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Văn T1, sinh năm 1984; Địa chỉ: Bản D, xã D, huyện M, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

Người tiến hành tố tụng khác:

1. Ông Đèo Văn T – Kiểm sát viên sơ cấp;

Người tham gia tố tụng khác: Cán bộ, chiến sỹ thuộc Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trước khi bị bắt quả tang ngày 11-3-2023 khoảng 01 tháng, Giàng A R đi bộ xuống khu vực ngã ba Kim thuộc xã L, huyện M tìm mua ma túy để sử dụng thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông tại đường đi lên xã Xã LP, qua nói chuyện người đó tự giới thiệu tên là V, nhà ở Huyện ML, Sơn La (Nhưng không nói địa chỉ cụ thể). R mua được của V 01 gói ma túy (Heroine) với giá 50.000đồng, sau đó V xin số điện thoại của R nói với R là V có nguồn ma túy nếu cần mua thì cứ gọi, R đồng ý và ra về, sau đó đã sử dụng hết gói ma túy mua được.

Khoảng một tuần sau khi gặp V có một người đàn ông đến nhà R tự giới thiệu tên là P1 nhà ở huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai hỏi mua ma túy của R nhưng R không có. P1 có bảo R đi tìm mua có bao nhiêu sẽ mua hết, vì muốn kiếm tiền chênh lệch trong việc mua bán ma túy nên R đồng ý và P1 lấy số điện thoại của R, hẹn ba tuần sau sẽ quay lại nhà R mua ma túy.

Khoảng 03 ngày khi bị bắt, người tên V gọi điện thoại cho R nói đang có 01 cây Heroine và 03 túi Hồng phiến bán hỏi R có mua không. R đồng ý mua và hẹn gặp V tại đầu cầu bắc qua suối đi vào xã D, huyện M để giao dịch mua bán. Chiều cùng ngày, Giàng A R gặp V tại điểm hẹn trên và được V cho biết giá bán 01cây Heroine là 20.000.000đồng và 01 túi Hồng phiến giá 3.000.000đồng. R nói mua hết nhưng chưa có tiền nên sẽ mua nợ bán được sẽ trả tiền sau. V đồng ý. Toàn bộ số ma túy trên R đem về nhà cất giấu và không nói cho ai biết đợi P1 đến để bán. Đến khoảng 13 giờ ngày 11-3-2023, P1 đến nhà R như đã hẹn và đồng ý mua 01 cây Heroine là 22.000.000đồng và 01 túi Hồng phiến giá 3.200.000 đồng. Khi P1 và R đang mua bán trái phép chất ma túy thì bị Tổ công tác thuộc P1 Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái và công an xã D phát hiện bắt quả tang. P1 chạy thoát, còn R bị bắt giữ cùng vật chứng gồm: Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải Giàng A R đang mặc 03 túi nilon đều được nẹp kín một đầu trong đó có 01 túi ni lon màu hồng trên một mặt của túi có chữ A và 02 túi ni lon màu xanh đều có viền miệng túi màu đỏ. Trong 03 túi nilon này đều có chứa các viên nén hình tròn dẹt màu hồng và màu xanh; 01 gói nilon màu trắng bên ngoài được cuốn bằng nhiều lớp băng dính màu trắng và màu đen, trong gói nilon này có chứa chất bột nén màu trắng. Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Yên Bái thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Giàng A R tại bản bản D, xã D, huyện M, tỉnh Yên Bái. Kết quả khám xét: không phát hiện đồ vật, tài sản nào có liên quan đến việc tàng trữ, mua bán ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 162/KL-KTHS ngày 19-3-2023 của P1 kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái, kết luận:

- Các viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang Giàng A R có tổng khối lượng là 59,2gam (Năm chín phẩy hai gam) trích 2,2 gam từ 59,2gam gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

- Các viên nén màu xanh thu giữ khi bắt quả tang Giàng A R có tổng khối lượng là 0,54 gam (không phẩy năm tư gam) đã lấy hết làm mẫu giám định, không tìm thấy thành phần chất ma túy.

- Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Giàng A R có tổng khối lượng là 37,5gam trích 01gam từ 37,5gam (Ba bẩy phẩy năm gam) chất bột nén gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại Bản cáo trạng số 21/CT-VKS-P1 ngày 25 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đã truy tố bị cáo Giàng A R về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái giữ nguyên quan điểm truy tố tại Bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A R (Tên gọi khác: Giàng Xú R) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

- Về hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm o, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Giàng A R từ 17 năm đến 18 năm tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng của vụ án như sau:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Số chất ma túy còn lại sau giám định là 36,5gam (Ba mươi sáu phẩy năm gam) Heroine và 57gam (Năm mươi bẩy gam) Methamphetamine; 01 (một) vỏ phong bì đã mở niêm phong, các vỏ túi nilon, các mảnh băng dính gói sau khi mở niêm phong; 01 (một) túi vải màu đen có dây đeo đã cũ không có giá trị sử dụng.

+ Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động Masstel màu xanh, bàn phím nổi, màn hình màu đã qua sử dụng là điện thoại của bị cáo sử dụng trong việc mua bán ma túy.

- Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo

* Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn; thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân, bị cáo là người trên 70 tuổi. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm o, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội vì hoàn cảnh gia đình khó khăn và cũng chưa được hưởng lợi gì từ việc mua bán ma túy. Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A R từ 15 năm 6 tháng đến 16 năm tù; Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo; Về xử lý vật chứng nhất trí như đề nghị của Kiểm sát viên.

Bị cáo nhận tội như bản cáo trạng đã truy tố và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai nhận tại cơ quan điều tra; bị cáo không tranh luận, bào chữa gì và nhất trí với nội dung bào chữa của người bào chữa; bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Ngày 11-3-2023, Giàng A R đang có hành vi bán trái phép 37,5gam (Ba bảy phẩy năm gam) Heroine và 59,2gam (Năm chin phẩy hai gam) Methamphetamine cho người đàn ông tên P1 (không biết rõ họ và địa chỉ) tại nhà R với giá 31.600.000 đồng (Ba mươi mốt triệu sáu trăm nghìn đồng) thì bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Số ma túy nêu trên Giàng A R đã trực tiếp mua nợ của một người đàn ông tên dân tộc Mông tên là V (không biết rõ họ, địa chỉ cụ thể) trước khi bị bắt khoảng 03 ngày với giá 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu đồng).

Đối với các viên nén màu xanh thu giữ khi bắt quả tang Giàng A R có tổng khối lượng là 0,54gam (Không phẩy năm tư gam) không tìm thấy thành phần của chất ma túy, bản thân bị can nhận thức đây là những viên chống ẩm, mốc, giữ mùi, không phải là ma túy. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán toàn bộ 37,5gam Heroine và 59,2gam Methamphetamine.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do hám lời nên đã cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Giàng A R đã mua bán 02 chất ma túy có khối lượng 96,7gam là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng chống ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự, trị an ở địa phương, hậu quả tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là rất lớn cho xã hội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người trên 70 tuổi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo.

[7] Về nhân thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; bị cáo đã từng bị kết án phạt tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy (đều đã được xóa án tích). Tuy nhiên cũng cần xác định bị cáo là người có đặc điểm nhân thân xấu.

[8] Từ những nhận định và phân tích nêu trên, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng với tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, mới đảm bảo được tính giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ trong vụ án:

- 37,5gam (Ba mươi bảy phẩy năm gam) Heroine, đã lấy 1 gam làm mẫu giám định, còn lại 36,5gam (Ba mươi sáu phẩy năm gam) Heroine; 59,2gam (Năm mươi chín phẩy hai gam) Methamphetamine, đã lấy 2,2gam làm mẫu giám định, còn lại 57gam (Năm mươi bẩy gam) Methamphetamine cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (một) vỏ phong bì đã mở niêm phong, các vỏ túi nilon, các mảnh băng dính gói sau khi mở niêm phong; 01 (một) túi vải màu đen có dây đeo đã cũ không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại hiệu Masstel màu xanh, bàn phím nổi là tài sản bị cáo R đã dùng làm phương tiện để giao dịch mua bán ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Đối với hai người đàn ông tên là V và P1 chỉ có lời khai của R là người đã bán ma túy và mua ma túy của bị cáo. Do bị cáo không biết rõ họ, tuổi, địa chỉ của những người này nên không có cơ sở để xác minh, điều tra xử lý.

[11] Về án phí: Bị cáo là người thuộc đối tượng được miễn án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tại phiên tòa bị cáo có đề nghị xin được miễn án phí nên Hội đồng xét xử thấy cần miễn án phí cho bị cáo.

[12] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Giàng A R (Tên gọi khác: Giàng Xú R) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm o, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng A R (Giàng Xú R) 17 năm 06 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt, tạm giữ bị cáo 11-3-2023.

3. Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng sau đây:

+ 01 (một) phong bì niêm phong do P1 kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. Mặt trước ghi: Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Giàng A R SN:

1946 Mua bán trái phép chất ma túy, xảy ra tại bản D, xã D, huyện M, tỉnh Yên Bái ngày 11-3-2023 (Sau khi trích mẫu giám định). Măt sau các mép phong bì được dán kín dán kín....(36,5gam (Ba mươi sáu phẩy năm gam) Heroine và 57gam (Năm mươi bẩy gam) Methamphetamine).

+ 01 (một) vỏ phong bì, các vỏ túi nilon, các mảnh băng dính gói sau khi mở niêm phong và 01 (một) túi vải màu đen có dây đeo đã qua sử dụng.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước:

+ 01(một) điện thoại di động Masstel màu xanh, bàn phím nổi, đã qua sử dụng;

(Toàn bộ số vật chứng và tài sản thu giữ nêu trên có đặc điểm được mô tả tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26-4-2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Yên Bái và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12; Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng A R.

5. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Giàng A R có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về