TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29/6/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2023/HSST ngày 14/6/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2023/QĐXXST-HS ngày 14/6/2023; đối với các bị cáo:
1/ Mai Xuân Th, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1xxx; HKTT: Thôn 2, xã Nga T, huyện N, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông: Mai Xuân T, sinh năm 1970; con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1973; có vợ: Mai Thị Oanh, sinh năm 2xxx, con: có 01 con, sinh năm 2021.
Tiền án; tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 15/5/2023, bị Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh T; Có mặt tại phiên tòa.
2/ Mai Xuân H, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2004; HKTT: Thôn 2, xã Nga T, huyện N, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông: Mai Xuân T, sinh năm 1976; con bà: Vũ Thị H, sinh năm 1973; chưa có vợ, con.
Tiền án; tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 16/5/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh T; Có mặt tại phiên tòa.
3/ Trần Thị Lan A - Sinh ngày 29 tháng 9 năm 1xxx; HKTT: tại phường Tràng An, thị xã Đ, tỉnh Q; Nơi tạm trú: Phường Bắc Sơn, thị xã B, tỉnh T; Nơi ở hiện nay: Khu 7, phường Tràng An, thị xã Đ, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông: Trần Đức T, sinh năm 1977; con bà: Nguyễn Thị P, sinh năm 1978; có chồng: Vũ Văn G, sinh năm 1985; có 02 con: con lớn sinh năm 2013; con nhỏ sinh năm 2022.
Tiền án; tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa.
4/ Trần Đức A, sinh ngày 18 tháng 3 năm 1993; HKTT: Phường Lam Sơn, thị xã B, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông: Trần Văn S (đã chết); con bà: Nguyễn Thị K, sinh năm 1974; chưa có vợ con.
Tiền án; tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh T; Có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1/ A Nguyễn Văn K, sinh năm 2xxx; địa chỉ: Thôn Đông Kinh, xã Nga Trường, huyện N, tỉnh T; vắng mặt.
2/ A Mai Văn H, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn H Bình, xã Nga H, huyện N, tỉnh T; vắng mặt.
3/ A Nguyễn Văn V, sinh năm 1982; địa chỉ: Khu 6, phường Bắc Sơn, thị xã B, tỉnh T; vắng mặt.
* Người chứng kiến: Anh Mai Văn L, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn Yên Khoái, xã Nga Yên, huyện N, tỉnh T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:
Mai Xuân Th, ở xã Nga T, thuê nhà trọ tại khu phố 2, phường Ba Đình, thị xã B, tỉnh T làm công việc chở nhân viên cho các quán Karaoke. Biết một số người có nhu cầu mua ma túy để sử dụng Th nảy sinh ý định mua ma túy để bán lại cho người khác hưởng lợi.
Đầu tháng 12/2022, khi ăn uống cùng, Th nói cho Mai Văn H là bạn xã hội biết việc Th có bán ma túy. H nói lại với một số người bạn về việc này trong đó có Nguyễn Văn K. Mấy ngày sau, K xin H số điện thoại của Th.H cho K số điện thoại 0976.380.xxx của Th, nhưng H không biết mục đích của K xin số điện thoại để làm gì.
Từ thời gian ngày 14/12/2022 đến ngày 23/12/2022, Mai Xuân Th thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy trên địa bàn N như sau:
Lần 1: Tối ngày 14/12/2022, do Nguyễn Văn K có nhu cầu sử dụng ma túy nên đã gọi điện cho Th, đặt mua nửa chỉ Ketamine. Th biết K là bạn của H nên đồng ý bán và báo giá 1.700.xxxđ. K hẹn Th mang ma túy xuống gần ngã tư Cô Tơ thuộc địa phận xã Nga Yên, huyện N để giao dịch. Th thuê xe của Nguyễn Văn V, ở phường Bắc Sơn, thị xã B, tỉnh T, đồng thời rủ Mai Xuân H (em họ của Th đang ở trọ cùng) đi với Th. Lúc đầu, H nghĩ đi cùng Th về xã Nga T nên đồng ý. Trên xe, nghe Th nói H mới biết Th đem theo ma túy đi bán cho khách, H không nói gì. Đến tỉnh lộ 527b thuộc địa phận thôn Yên Khoái, xã Nga Yên, huyện N (gần ngã tư Cô Tơ), Th nói anh V dừng xe chờ. Sau đó Mai Văn H điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Văn K dừng cách đầu xe taxi khoảng 05 m, H ngồi trên xe, K một mình đi bộ đến cửa sau bên phải xe taxi. Thấy K, Th hạ kính, đồng thời mở cửa xe thả vỏ bao thuốc lá Thăng L màu vàng (bên trong chứa nửa chỉ Ketamine) xuống đường ngay sát bánh sau bên phải xe ô tô. K cúi người xuống nhặt bao thuốc, mở ra xem thấy bên trong có túi nilon trắng nhỏ chứa ma túy thì đóng lại cầm trên tay rồi đưa số tiền 1.700.xxxđ cho Th. Hai bên giao dịch xong, K quay lại nơi H đợi, ngồi lên phía sau xe do H điều khiển rời khỏi hiện trường. Th cũng đề nghị anh V di chuyển về hướng thị trấn N để mua nước uống, rồi quay về thị xã B.
Lần 2: Ngày 19/12/2022, K tiếp tục gọi điện đến số điện thoại 0976.380.xxx của Th để đặt mua nửa chỉ Ketamine. Th đồng ý, báo giá 1.700.xxxđ. Th nhờ Mai Xuân H trực tiếp cầm ma túy đến gần ngã tư Cô Tơ giao cho K. Th gọi taxi của anh V đến đón H. Th đưa cho H 01 vỏ bao thuốc lá Thăng L màu vàng, bên trong chứa ma túy và điện thoại Nokia, gắn sim số 0976.380.xxx để H liên lạc với khách. Trên đường đi H mở vỏ bao thuốc lá Thăng L màu vàng ra xem thì thấy bên trong có túi nilon nhỏ màu trắng chứa ma túy dạng “ke”. Đến địa phận giáp danh giữa xã Nga Trường và xã Nga Yên, cách ngã tư Cô Tơ khoảng 700m, H nói anh V dừng xe, dùng điện thoại của Th đưa gọi cho K đến địa điểm nhận ma túy. Khoảng 10 phút sau, Nguyễn Văn K điều khiển xe mô tô từ xã Nga Trường đến, dừng xe phía sau xe ô tô rồi đi bộ đến gần. K mở cửa xe ô tô, ngồi lên ghế sau bên phải. H bỏ bao thuốc lá chứa ma túy trên ghế, ngay cạnh chỗ H ngồi. K tự cầm bao thuốc lá rồi đưa 1.700.xxxđ cho H. K xuống xe, đi bộ quay lại chỗ xe mô tô và điều khiển xe đi về hướng ngã tư Cô Tơ. H nói anh V đi theo hướng ngã tư Cô Tơ quay về B. Về đến nơi, H đưa toàn bộ số tiền bán ma túy cho Th.
Lần 3: Chiều tối ngày 21/12/2022, Nguyễn Văn K tiếp tục gọi điện cho Th đặt mua nửa chỉ Ketamine và hẹn Th đem ma túy đến gần quán karaoke P, xã Nga Yên để giao. Th đồng ý và báo giá 1.500.xxxđ. Số tiền này, Th yêu cầu K chuyển vào số tài khoản của người do Th cung cấp. K nhờ người bạn đi hát karaoke cùng chuyển tiền theo yêu cầu của Th. Th lại nhờ H mang ma túy đi giao cho khách. Th đưa cho H chiếc điện thoại Nokia, lắp sim số 0976.380.xxx để liên lạc. H gọi taxi hãng Mai Linh đi từ thị xã B đến huyện N. Đến địa phận thôn Yên Khoái, xã Nga Yên cách quán Karaoke P khoảng 150m H yêu cầu lái xe dừng lại bên phải đường. H đi bộ vòng lên trước đầu xe taxi sang bên trái đường (tại đây có đống gạch xây dựng được xếp thành nhiều chồng, bên cạnh có cột biển chỉ dẫn đường). H bỏ bao thuốc lá Thăng L màu vàng, bên trong chứa ma túy xuống chỗ đống gạch xây dựng cạnh chân cột biển chỉ dẫn. H đi bộ quay lại xe taxi để đi về B. Trên đường đi, H dùng số điện thoại 0976.380.xxx gọi đến số điện thoại 0963.727.xxx cho Th nói vị trí đặt ma túy.
Th gọi lại cho K chỉ vị trí lấy ma túy. K đi bộ từ quán Karaoke P ra tìm lấy được ma túy theo chỉ dẫn của Th.
Lần 4: Mai Xuân Th quen biết Trần Thị Lan A qua quan hệ xã hội. Lan A cũng làm công việc quản lý nhân viên các quán karaoke. Biết Lan A có ma túy, tối ngày 22/12/2022, Th sử dụng điện thoại di động gọi đến số 0364.129.xxx của Lan A để đặt mua 03 viên “kẹo” và nửa chỉ “ke”. Sẵn có số ma túy do nhân viên tên N (Lan A không rõ lai lịch, địa chỉ) đi làm về đưa cho nên khi Th hỏi mua thì Lan A đồng ý và báo giá tổng 2.xxx.xxxđ. Do phải chăm con nhỏ, Lan A nhờ Trần Đức A cầm ma túy đến giao cho Th tại khu vực cổng chào phường Ngọc Trạo, thị xã B. Số ma túy Lan A nhờ, Đức A biết rõ là ma túy dạng “Kẹo” (MDMA) và “ke” (Ketamine). Lan A đưa số điện thoại của Th cho Đức A liên hệ, Đức A sử dụng điện thoại nhãn hiệu Iphone X để liên lạc với Th, sau đó, Đức A sử dụng xe mô tô, nhãn hiệu Wave màu trắng BKS 36G6- xxxx (xe của Nguyễn Duy K, người sống chung như vợ chồng với Lan A) đi giao ma túy cho Th. Đức A bọc số ma túy trong một mảnh giấy vệ sinh rồi đưa cho Th. Nhận được ma túy, Th đưa cho Đức A 2.xxx.xxxđ; Đức A đã đưa lại cho Lan A và được Lan A cho 200.xxxđ, Đức A đã sử dụng chi tiêu hết.
Mua được ma túy, Th trở về phòng trọ, bỏ ma túy vào trong một phong bì thư viền xanh đỏ. Khoảng 16 giờ, ngày 23/12/2022, Th đang ở phòng trọ, thì có người nam giới gọi từ số điện thoại 090403xxxx gọi đến số điện thoại 0976.380.xxx cho Th, hỏi mua 3 viên kẹo và nửa chỉ ke. Th nghe điện thoại, nghĩ là của người đã mua ma túy 3 lần trước nên đồng ý, báo giá 3.xxx.xxxđ, người hỏi mua đồng ý. Th thuê xe taxi của anh Nguyễn Văn V đi từ thị xã B đến huyện N để giao ma túy. Khi đi ngoài số ma túy mang bán cho khách, Th còn mang theo 01 khẩu súng colt quay bên trong có 06 viên đạn, Th giắt súng ở lưng quần, ngồi bên ghế phụ xe taxi do anh V điều khiển xe đi đến tỉnh lộ 527b, đoạn giao giữa xã Nga Yên và xã Nga Trường (ngã tư Cô Tơ), Th nói anh V dừng xe để đợi người mua ma túy đến.
Khoảng 16 giờ 40 phút, ngày 23/12/2022, Công an huyện N nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại khu vực tỉnh lộ 527b, đoạn đi giữa xã Nga Yên và xã Nga Trường có đối tượng có biểu hiện nghi vấn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Công an huyện N đã tiến hành triển khai lực lượng xác minh. Đến 16 giờ 50 phút cùng ngày tại địa phận trên, tổ công tác phát hiện, bắt quả tang Mai Xuân Th đang tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm bán lại cho người khác. Thu giữ tại hiện trường:
- 01 phong bì viền xanh đỏ, trong có 01 túi nilon trắng, kích thước 7 x5 cm, bên trong có 03 viên nén màu nâu, 01 túi nilon trắng, kích thước 2 x2 cm bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể.
- 01 vật thể dạng súng colt quay màu đen, trong ổ có 06 viên đạn, vỏ màu vàng, đầu màu đen, đuôi đạn có đường kính 2,4cm; đầu đạn có kích thước đường kính 0,6cm.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh dương.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen.
Tạm giữ 01 xe ô tô, nhãn hiệu Kia moring màu trắng, BKS 36A-xxxxx, đã qua sử dụng là phương tiện của anh Nguyễn Văn V chở Mai Xuân Th đi từ thị xã B đến huyện N.
Ngày 23/12/2022, cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Mai Xuân Th, tại số nhà 35, ngõ số 1, đường Đào Duy Từ, phường Ba Đình, thị xã B phát hiện, thu giữ trong 01 túi xách màu xám để đầu giường trong phòng ngủ (cạnh phòng bếp) có 01 túi nilon trong suốt (dạng túi zip), bên trong chứa các túi nilon trong suốt, kích thước (2 x 2)cm, dạng túi zip.
Ngày 26/12/2022, Cơ quan CSĐT tiếp tục tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Thị Lan A, tại số nhà 112, đường Trần Quang Khải, phường Bắc Sơn, thị xã B, tỉnh T, phát hiện thu giữ:
- 01 ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 10.xxxđ, cố định bằng 02 vỏ đầu lọc điếu thuốc lá để bên trên hộp catton và 01 túi nilon trong suốt, kích thước (2 x2)cm trên giá để đồ ở phòng cuối cùng nơi đặt bàn bi-a.
- 01 túi nilon trong suốt, kích thước (5 x8)cm trong túi quần bò bên phải treo trong nhà tắm.
- 01 đĩa sứ màu trắng có đường kính 30cm, trên bề mặt, có bám dính chất màu trắng, đặt trên tủ bếp của phòng ăn.
- 01 túi nilon kích thước (6 x8)cm bên trong chứa mảnh viên nén và các mảnh vụn màu nâu thu trên giá đựng đồ trang điểm.
- 01 túi nilon bên trong có chứa chất dạng tinh thể thu trong tủ của giá đựng đồ trang điểm.
- 01 túi nilon bên trong có chứa chất màu trắng thu giữ dưới đệm của phòng ngủ thứ nhất.
Những tang vật thu giữ trên, theo Nguyễn Duy K (người đang sống chung như vợ chồng với Trần Thị Lan A) trình bày là của K được một người bạn tên Hùng cho cách đây vài tháng, mục đích để sử dụng.
Quá trình làm việc với cơ quan điều tra, Th đã tự thú về hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn K vào các ngày 14,19 và 21/12/2022; Mai Xuân H đầu thú và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphonne 6s màu vàng, gắn sim số 0968.480.xxx; Trần Đức A đầu thú và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng đen, đã qua sử dụng, gắn sim số 0379.180.xxx; Trần Thị Lan A đầu thú và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, đã qua sử dụng, gắn sim số 0364.129.xxx.
Ngày 24/12/2022, Cơ quan CSĐT ra Quyết định trưng cầu giám định số 127/QĐ-CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T giám định chất màu trắng, dạng tinh thể bên trong 01 túi nilon trắng, kích thước (2 x 2)cm; 03 viên nén màu nâu bên trong 01 túi nilon trắng, kích thước (7 x5)cm (tang vật thu của Mai Xuân Th). Nội dung yêu cầu: chất màu trắng, dạng tinh thể, bên trong 01 túi nilon trắng, kích thước (2 x 2)cm gửi giám định có phải là ma túy không? Nếu là ma túy, loại ma túy gì? Khối lượng bao nhiêu? Tại Kết luận giám định số 169/KL-KTHS ngày 28/12/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:
- 03 viên nén màu nâu của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,495g (một phẩy bốn chín năm gam) loại MDMA.
- Chất màu trắng dạng tinh thể của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,337g (không phẩy ba ba bẩy gam) loại Ketamine.
Ngày 24/12/2022, Cơ quan CSĐT ra Quyết định trưng cầu giám định số 128/QĐ-CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T giám định 01 vật thể dạng súng colt quay màu đen, trong ổ đạn có 06 viên đạn, vỏ màu vàng, đầu màu đen, đuôi đạn có đường kính 2,4cm, đầu đạn có kích thước đường kính 0,6cm có phải là súng và đạn quân dụng không? Nếu không phải là súng, đạn quân dụng thì khẩu súng và đạn trên có tính năng tương tự như súng và đạn quân dụng hay không? Tình trạng của khẩu súng có hoạt động bình thường hay không? Số đạn trong ổ đạn của khẩu súng có sử dụng được hay không? Tại Bản kết luận giám định số 232/KL-KTHS ngày 30/12/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: 01 khẩu súng gửi giám định là súng nén hơi đã được chế tạo thêm hệ thống kim hỏa và cắt chế ổ quay, nòng súng. Hiện tại khẩu súng này bắn được đạn cỡ 5,6 x 11,5mm và thuộc loại vũ khí quân dụng; 06 viên đạn gửi giám định là loại đạn thể thao cỡ 5,6 x 15,5mm, không phải là vũ khí quân dụng.
Căn cứ kết luận giám định Cơ quan CSĐTT Công an huyện N đã chuyển nguồn tin cùng tang vật là 01 khẩu súng trên đến Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh T để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan an ninh điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Mai Xuân Th về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng: theo khoản 1 Điều 304 của BLHS.
Ngày 27/12/2022, Cơ quan CSĐT ra Quyết định số 129/QĐ-CSĐT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T giám định đối với chất màu trắng, các mảnh vụn màu nâu thu giữ được khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Thị Lan A.
Tại Kết luận giám định số 214/KL-KTHS ngày 30/12/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:
- Chất màu trắng bám dính trên 01 đĩa sứ màu trắng của hộp catton niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine; không xác định được khối lượng chất ma túy.
- 01 mảnh viên nén và các mảnh vụn màu nâu của phong bì ký hiệu M1 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,021g (không phẩy không hai một gam) loại MDMA.
- Chất dạng tinh thể của phong bì ký hiệu M2 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,067g (không phẩy không sáu bẩy gam) loại: Ketamine.
- Chất màu trắng của phong bì ký hiệu M3 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,002g (không phẩy không không hai gam) loại Ketamine.
Số ma túy bán cho khách các ngày 14,19,21 và 23/12/2022, Th trình bày đều mua của Lan A. Qua đối chất giữa Th với Lan A và Đức A thì Lan A và Đức A khẳng định ngoài lần bán ma túy cho Th vào ngày 22/12/2022 thì không bán cho Th hay H lần nào khác.Việc Th khai mua ma túy của Lan A vào ngày 14,19 và 21/12/2022 không có ai biết và chứng kiến nên không có căn cứ xác định Lan A bán ma túy cho Th vào các ngày trên.
Đối với Nguyễn Văn K, mua ma túy của Th vào 03 ngày: 14, 19 và 21/12/2022, K đã sử dụng hết cho bản thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được ma túy và xác định khối lượng ma túy. Khối lượng ma túy Th tàng trữ bán trái phép ngày 23/12/2022, gồm 1,495g loại MDMA và 0,337g loại Ketamine.
Số ma túy của K mua của Th vào ngày 14,19, 21 tháng 12 năm 2022, do không tiến hành thu giữ và xác định được khối lượng cụ thể nên không có căn cứ xem xét xử lý trách nhiệm của K về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nên K đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Đối với Mai Xuân H đi cùng Th mang ma túy bán cho khách ngày 14/12/2022, tuy nhiên trước khi đi cùng, Th không nói cho H biết việc Th đi bán ma túy. Khi Th bán ma túy, H không tham gia với vai trò giúp sức nên H chỉ bị xem xét xử lý trách nhiệm về hành vi đồng phạm với Th vào ngày 19 và 21/12/2022.
Đối với Mai Văn H, chở Nguyễn Văn K đến điểm hẹn mua ma túy của Mai Xuân Th vào ngày 14/12/2022, nhưng khi đi K không nói với với H về việc mình đi mua ma túy, H không biết việc mua bán trái phép chất ma túy của K nên Cơ quan CSĐT không xử lý trách nhiệm đối với H là phù hợp.
Đối với Nguyễn Văn V lái taxi chở Th và H vào các ngày 14, 19 và 23/12/2022. Quá trình điều tra V không biết Th và H cất giấu ma túy trong người để bán cho khách nên Cơ quan CSĐT không xử lý trách nhiệm đối với V là phù hợp.
Đối với người gọi điện đặt mua ma túy của Th ngày 23/12/2022, theo Th nghe giọng nói qua điện thoại nghĩ là Nguyễn Văn K, cơ quan điều tra đã cho Th và K đối chất, K không thừa nhận việc đặt mua ma túy. Số điện thoại của người mua gọi là số 0904.030.xxx, qua xác định là số thuê bao trả trước đăng ký chính chủ là anh Phạm Văn B, sinh năm 1991, ở xã Nga Liên, huyện N, nhưng anh B không sử dụng sim số này và không biết ai đang sử dụng nên không có căn cứ xác định người đặt mua ma túy của Th vào ngày 23/12/2022.
Toàn bộ số ma túy đã thu giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Thị Lan A, quá trình điều tra xác định là của Nguyễn Duy K, gồm 0,069g Ketamine và 0,021g MDMA. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Duy K chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển hồ sơ cùng toàn bộ tang vật liên quan đến Công an huyện N để xử phạt hành chính đối với K theo quy định.
Số ma túy Lan A bán cho Th, Lan A khai của nữ nhân viên tên N đưa cho, K khai là của người nam giới tên Hùng đưa cho để sử dụng. Tuy nhên, Lan A và K đều không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ của hai người này nên Cơ quan CSĐT không có căn cứ để điều tra, xác minh.
Đối với điện thoại Nokia Th sử dụng lắp sim 097.6380.xxx để liên lạc mua ma túy. Ngày 21/12/2022, Th sử dụng sim 0963.727.xxx lắp vào điện thoại khác liên lạc với H và K. Sau điện thoại này hỏng, Th đã vứt bỏ nên Th đã lắp sim số 0963.727.xxx vào điện thoại Nokia cùng sim số 097.6380.xxx, Cơ quan CSĐT không tiến hành thu giữ được.
Điện thoại SAMSUNG màu xanh dương không liên quan đến hành vi phạm tội của Th, ngày 14/3/2023 Cơ quan CSĐT đã trả lại cho Th (bà Nguyễn Thị T, mẹ đẻ của bị cáo nhận thay).
Xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, BKS 36R6-xxxx là tài sản của Nguyễn Duy K, Đức A sử dụng đi giao ma túy cho Th vào tối ngày 22/12/2022, K không hay biết. Ngày 18/5/2023, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho anh Nguyễn Duy Xuyên (anh trai K nhận thay), do K đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã B trong vụ án khác.
Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng, gắn sim số 0968.480.xxx của Mai Xuân H tự nguyện giao nộp khi đầu thú không liên quan đến hành vi phạm tội, ngày 18/5/2023, Cơ quan CSĐT đã trả lại cho H (chị Mai Thị S, chị gái nhận thay).
Đối với hành vi tàng trữ 06 viên đạn thể thao của Mai Xuân Th là vi phạm hành chính, Cơ quan CSĐT đã chuyển hồ sơ cùng số tang vật còn lại sau giám định đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh T ra quyết định xử phạt theo quy định.
Tang vật, tài sản liên quan đến vụ án, gồm: Toàn bộ bao gói mở niêm phong và 02 viên nén màu nâu có tổng khối lượng là 1,002g và 0,287g chất màu trắng dạng tinh thể, đều đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T; 01 túi nilon trong suốt dạng túi zip, bên trong chứa các túi nilon trong suốt, kích thước (2 x2)cm dạng túi zip; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh đã qua sử dụng gắn sim số 0364.129.xxx của Trần Thị Lan A; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng, đen đã qua sử dụng, gắn sim số 0379.180.xxx của Trần Đức A; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Mai Xuân Th đang được bảo quản chờ xử lý theo quy định.
Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo cáo trạng số 17/CT-VKSNS ngày 13/6/2023 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đối với Mai Xuân Th và Mai Xuân H theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự; Trần Thị Lan A và Trần Đức A theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng:
- Điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 56; Điều 58; điểm s, r khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Mai Xuân Th từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù; tổng hợp hình phạt tù 02 năm 06 tháng của Bản án số 101/2023/HS-ST, ngày 15/5/2023 và Thông báo sửa chữa bổ sung bản án số 88/2023/TB-TA ngày 27/6/2023 của TAND tỉnh T; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (23/12/2022).
- Điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo: Mai Xuân H từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (16/5/2023).
- Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị Lan A từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Đức A từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (27/12/2022) * Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo, vì bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập.
* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy gồm:
- 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, tại các mép dán của phong bì được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh T. Theo biên bản giao nhận lại đối tượng giám định, bên trong phong bì chứa toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và số ma túy còn lại sau giám định, bao gồm: 02 viên nén màu nâu có tổng khối lượng là 1,002g, loại MDMA; 0,287g ma túy, loại Ketamine.
- 01 túi nilon trong suốt dạng túi zip, bên trong chứa các túi nilon trong suốt, kích thước (2x2)cm, dạng túi zip;
Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh đã qua sử dụng gắn sim số 0364.129.xxx của Trần Thị Lan A;
- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng, đen đã qua sử dụng, gắn sim số 0379.180.xxx của Trần Đức A;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Mai Xuân Th Truy thu:
+ Số tiền 4.900.xxxđ của Mai Xuân Th là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 03 lần ma túy cho Nguyễn Văn K.
+ Số tiền 1.800.xxxđ của Trần Thị Lan A là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 01 lần ma túy cho Mai Xuân Th.
+ Số tiền 200.xxxđ của Trần Đức A được Trần Thị Lan A cho từ khoản thu lợi bất chính phạm tội bán ma túy cho Mai Xuân Th.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS, các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Mai Xuân Th, Mai Xuân H, Trần Thị Lan A, Trần Đức A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: trong khoảng thời gian từ ngày 14/12/2022 đến ngày 23/12/2022, Mai Xuân Th đã thực hiện 04 lần mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn huyện N, cụ thể:
Vào các ngày 14,19 và 21/12/2022, Th bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn K tổng 1,5 chỉ Ketamine với số tiền là 4.900.xxxđ. Các lần phạm tội trên Mai Xuân H tham gia giúp sức cho Th bán ma túy vào ngày 19 và 21/12/2022 để giao dịch với Nguyễn Văn K. Số ma túy này, K đã sử dụng hết nên không xác định được khối lượng cụ thể.
Ngày 22/12/2022, Mai Xuân Th đã mua trái phép của Trần Thị Lan A 03 viên kẹo có khối lượng 1,495g, loại MDMA và nửa chỉ Ketamine, có khối lượng 0,337g, giá 2.xxx.xxxđ. Lần phạm tội này,Trần Đức A tham gia giúp sức cho Lan A giao ma túy cho Th được Lan A cho hưởng lợi 200.xxxđ, Đức A đã sử dụng chi tiêu. Ngày 23/12/2022, Mai Xuân Th mang số ma túy này bán cho khách tại địa phận thôn Yên Khoái, xã Nga Yên, huyện N thì bị kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Ngoài số ma túy mang bán cho khách, Th còn mang theo 01 khẩu súng colt bên trong có 06 viên đạn nên số tang vật này đã được chuyển đến cơ quan an ninh để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan an ninh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Mai Xuân Th về tội “Tàng trữ vũ trái phép khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của BLHS.
Tang vật liên quan trong vụ án đang thu giữ chờ xử lý theo quy định, gồm có: Toàn bộ bao gói mở niêm phong và 02 viên nén màu nâu có tổng khối lượng là 1,002g và 0,287g chất màu trắng dạng tinh thể, đều đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T; 01 túi nilon trong suốt dạng túi zip, bên trong chứa các túi nilon trong suốt, kích thước (2 x2)cm dạng túi zip; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh đã qua sử dụng gắn sim số 0364.129.xxx của Trần Thị Lan A; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng, đen đã qua sử dụng, gắn sim số 0379.180.xxx của Trần Đức A; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Mai Xuân Th Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám xét, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu, lời khai của những người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Mai Xuân Th đã thực hiện 04 lần mua bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng khác. Trong đó Mai Xuân H tham gia bán ma túy giúp sức cho Th là 02 lần. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” từ hai lần trở lên thuộc trường hợp định khung hình phạt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của BLHS; Trần Thị Lan A đã bán ma túy trái phép cho Th 01 lần và Trần Đức A tham gia giúp sức cho Lan A để bán ma túy cho Th.
Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức rõ về hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.
[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của các bị cáo có tính chất và mức độ rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc mua bán, trao đổi các chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân.
Đối với Mai Xuân Th có hành vi mang theo súng, bên trong có 06 viên đạn đã bị truy tố về tội “Tàng trữ vũ trái phép khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 của BLHS. Ngày 15/5/2023, bị TAND tỉnh T xét xử 3 năm tù. Tuy bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng bị cáo Th có nhân thân xấu.
[4] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Trong đó, Mai Xuân Th là người đã nảy sinh ý định và đặt mua ma túy mang về huyện N để bán cho khách có nhu cầu. Bị cáo đã thực hiện hoàn thành 03 lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn K, riêng lần bán thứ 4 chưa kịp giao bán thì bị phát hiện, bắt quả tang nên bị cáo Th giữ vai trò đầu vụ. Bị cáo Mai Xuân H tham gia giúp sức cho Mai Xuân Th bán ma túy cho Th nên giữ vai trò vị trí thứ 2.Trần Thị Lan A bán 01 lần trái phép chất ma túy cho Th nên giữ vai trò thứ 03; Trần Đức A giúp sức cho Lan A bán ma túy cho Th nên giữ vai trò thấp nhất trong vụ án.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: bị cáo Mai Xuân Th có nhân thân xấu.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Mai Xuân Th, Mai Xuân H phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng; các bị cáo Trần Thị Lan A, Trần Đức A phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
Quá trình điều tra, bị cáo Th đã tự thú về hành vi phạm tội; các bị cáo H, Lan A, Đức A đã đầu thú về hành vi phạm tội. Ngoài ra, bị cáo Mai Xuân Th có ông ngoại là Nguyễn Văn G, bà ngoại Hồ Thị T được Chủ tịch UBND tỉnh T tặng Bằng khen đã có thành tích tham gia cuộc kháng chiến chống pháp xâm lược; bị cáo Trần Đức A đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Do đó, Mai Xuân Th được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1; khoản 2 Điều 51; của BLHS; các bị cáo Mai Xuân H, Trần Thị Lan A, Trần Đức A được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của BLHS.
[6] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo Mai Xuân Th, Mai Xuân H, Trần Thị Lan A, Trần Đức A là lao động tự do, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS đối với các bị cáo.
[7] Từ những căn cứ nêu trên: HĐXX xét thấy cần thiết phải áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục các bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, HĐXX căn cứ các tình tiết giảm nhẹ TNHS để giảm cho các bị cáo một phần hình phạt, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[8] Về xử lý vật chứng:
* Cần tịch thu tiêu hủy:
- 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, tại các mép dán của phong bì được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh T. Theo biên bản giao nhận lại đối tượng giám định, bên trong phong bì chứa toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và số ma túy còn lại sau giám định, bao gồm: 02 viên nén màu nâu có tổng khối lượng là 1,002g, loại MDMA; 0,287g ma túy, loại Ketamine.
- 01 túi nilon trong suốt dạng túi zip, bên trong chứa các túi nilon trong suốt, kích thước (2x2)cm, dạng túi zip;
Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh đã qua sử dụng gắn sim số 0364.129.xxx của Trần Thị Lan A;
- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng, đen đã qua sử dụng, gắn sim số 0379.180.xxx của Trần Đức A;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Mai Xuân Th Truy thu:
+ Số tiền 4.900.xxxđ của Mai Xuân Th là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 03 lần ma túy cho Nguyễn Văn K.
+ Số tiền 1.800.xxxđ của Trần Thị Lan A là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 01 lần ma túy cho Mai Xuân Th.
+ Số tiền 200.xxxđ của Trần Đức A được Trần Thị Lan A cho từ khoản thu lợi bất chính phạm tội bán ma túy cho Mai Xuân Th.
[9] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 56; Điều 58; điểm s, r khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Mai Xuân Th).
- Điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Mai Xuân H).
- Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Trần Thị Lan A).
- Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Trần Đức A).
* Tuyên bố: Các bị cáo Mai Xuân Th, Mai Xuân H, Trần Thị Lan A, Trần Đức A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt:
- Bị cáo Mai Xuân Th 08 (tám) năm 09 (chín) tháng tù; Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù theo Bản án số 101/2023/HS-ST, ngày 15/5/2023 và Thông báo sửa chữa bổ sung bản án số 88/2023/TB-TA ngày 27/6/2023 của TAND tỉnh T; Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 11 (mười một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/12/2022.
- Bị cáo Mai Xuân H 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (16/5/2023).
- Bị cáo Trần Thị Lan A 02 (Hai) năm 09 (chín) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Bị cáo Trần Đức A 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (27/12/2022).
* Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS đối với các bị cáo.
* Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy gồm:
- 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, tại các mép dán của phong bì được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lê Hùng C và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh T. Theo biên bản giao nhận lại đối tượng giám định, bên trong phong bì chứa toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và số ma túy còn lại sau giám định, bao gồm: 02 viên nén màu nâu có tổng khối lượng là 1,002g, loại MDMA; 0,287g ma túy, loại Ketamine.
- 01 túi nilon trong suốt dạng túi zip, bên trong chứa các túi nilon trong suốt, kích thước (2x2)cm, dạng túi zip;
Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh đã qua sử dụng gắn sim số 0364.129.xxx của Trần Thị Lan A;
- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng, đen đã qua sử dụng, gắn sim số 0379.180.xxx của Trần Đức A;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Mai Xuân Th.
(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng, lập ngày 16/6/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh T).
Truy thu:
- Số tiền 4.900.xxxđ của Mai Xuân Th là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 03 lần ma túy cho Nguyễn Văn K.
- Số tiền 1.800.xxxđ của Trần Thị Lan A là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội bán 01 lần ma túy cho Mai Xuân Th.
- Số tiền 200.xxxđ của Trần Đức A được Trần Thị Lan A cho từ khoản thu lợi bất chính phạm tội bán ma túy cho Mai Xuân Th.
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc các bị cáo Mai Xuân Th, Mai Xuân H, Trần Thị Lan A, Trần Đức A, mỗi bị cáo phải chịu 200.xxxđ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST
Số hiệu: | 17/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về