TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 171/2022/HS-PT NGÀY 17/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Vào ngày 17 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2022/TLPT-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Võ Thanh V và đồng phạm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 95/2021/HS-ST ngày 15-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
1/ VÕ THANH V, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1994 tại tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: Số 23 đường Đ, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; cha: (không rõ), mẹ: Võ Thị G (còn sống); chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không;
Về nhân thân: Ngày 26/9/2015, bị Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số:
49/2015/HS-ST).
Bị bắt ngày 10 tháng 6 năm 2021. Bị cáo hiện đang bị tạm giam, có mặt.
2/ PHAN VĂN T, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1993 tại tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: Số 249/25 Đường H H Tập, Tổ 26, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Thợ hớt tóc; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông: Phan Văn Đ và bà Trần Thị T (Đều còn sống); chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;
Về nhân thân: Ngày 23 tháng 10 năm 2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số:
226/2015/HS-PT).
Bị bắt ngày 16 tháng 10 năm 2020. Bị cáo hiện đang bị tạm giam, có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Võ Thanh V (theo yêu cầu của gia đình bị cáo): Luật sư Trần Văn H - Công ty luật TNHH A, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng và các Luật sư Đỗ Ngọc Q, Nguyễn Thế A - Văn phòng luật sư L, thuộc Đoàn luật sư thành phố H Nội, có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người làm chứng:
Anh Trần Hồng S, sinh năm 1998; Nơi cư trú: tỉnh Gia Lai, vắng mặt.
Ngoài ra vụ án còn có bị cáo Mai Thị Mỹ L, những người có quyền có lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 13 giờ 21 phút ngày 16/10/2020, tại trước nhà ông Mai H thuộc tổ 125, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, tổ tuần tra Công an quận L, thành phố Đà Nẵng phát hiện Mai Thị Mỹ L đang giao 01(một) túi nilong màu đen bên trong có hộp giấy vàng cho Trần Hồng S là tài xế Grab. Mai Thị Mỹ L khai nhận đây là ma túy L đưa cho S để giao cho Võ Thanh V tại số K249/25 H H Tập, quận T, thành phố Đà Nẵng theo yêu cầu của V. Ngoài ra L còn giao nộp 01 (một) gói nilong chứa các chất nghi là ma túy và số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng). Công an quận L, thành phố Đà Nẵng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
* Tang vật thu giữ gồm:
- 05 (năm) gói nilong bên trong mỗi gói có chứa 100 (một trăm) viên nén màu vàng; 03 (ba) gói nilong bên trong mỗi gói có chứa 100 (một trăm) viên nén màu hồng; 01(một) gói nilong bên trong có chứa 50 (năm mươi) viên màu vàng; 03 (ba) gói niong bên trong mỗi gói có chứa 50 (năm mươi) viên nén màu hồng; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 35 (ba mươi lăm) viên nén màu hồng; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 34 (ba mươi bốn) viên nén màu hồng; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 44 (bốn mươi bốn) viên nén màu vàng; 01 (một) gói nilong có chứa 01 (một) viên nén và ½ viên nén màu cam; 01 (một) gói nilong bên trong có chứa chất bột màu vàng; 05 (năm) gói nilong chứa tinh thể màu trắng. Đã được niêm phong theo quy định (ký hiệu A);
- 01 (một) gói nilong bên trong có 04 (bốn) gói nilong chứa tinh thể màu trắng;
01 (một) gói nilong có chứa 03 (ba) viên nén màu hồng, 03 (ba) viên nén màu cam, 01 (một) viên nén màu vàng, 01 (một) viên nén màu đà. Đã được niêm phong theo quy định (ký hiệu B); 01 (một) túi nilong màu đen; 01 (một) hộp giấy màu vàng; 01 (một) cân điện tử màu đen; 01 (một) điện thoại di động Iphone màu xanh có gắn thẻ sim 0936664634 và số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).
- Thu giữ của Trần Hồng S: 01 (một) điện thoại di động SamSung màu xanh số sim 0333992702, 0935866175.
- Bà Nguyễn Thị T là mẹ của Mai Thị Mỹ L giao nộp 01 (một) xe mô tô BKS 43F1-413.97.
Ngày 16/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phan Văn T tại phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng phát hiện và thu giữ:
- 01 (một) gói nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy, đã được niêm phong (ký hiệu C); 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Phan Văn T; 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị Kha L; 01 (một) cân tiểu ly màu đen; 50 (năm mươi) bao nilong màu trắng chưa sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu xanh có gắn thẻ sim 0905080905; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (không có thẻ sim);
Tại thời điểm khám xét nhà Phan Văn T có Võ Thanh V ở tại nhà T. Cơ quan Công an quận L, thành phố Đà Nẵng đã mời V về trụ sở Công an quận L, thành phố Đà Nẵng để làm rõ sự việc liên quan, thu giữ 01 (một) điện thoại di động Iphone số thuê bao 0905596896 (vỡ màn hình phía trước và phía sau, góc màn hình có vết nứt vỡ).
Ngày 16/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra quận L, thành phố Đà Nẵng đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Võ Thanh V tại thành phố Đà Nẵng phát hiện và thu giữ:
- 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Võ Thanh V; 01 (một) hộ chiếu số B9425869 mang tên Võ Thanh V; 01 (một) thẻ ngân hàng Agribank mang tên Võ Thanh V; 01 (một) điện thoại Nokia màu đen gắn thẻ sim 0762576779; 01 (một) điện thoại Nokia màu xanh gắn thẻ sim 0708222221 và số tiền: 1.600.000.000 đồng (Một tỷ sáu trăm triệu đồng).
Tại Kết luận giám định số 311/GĐ-MT ngày 23/10/2020 của Phòng KTHS-CA tp Đà Nẵng kết luận:
- Tinh thể màu trắng trong mẫu (ký hiệu A1), (B1b) gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu A1: 91,23 gam; B1b: 10,928 gam.
- Các viên nén trong mẫu (ký hiệu A2, A3, A4, B2, B3, B4, B5) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu A2: 163,87 gam; A3: 221,76 gam; A4: 0,564 gam; B2: 1,053 gam; B3: 0,348 gam; B4: 1,224 gam; B5: 0,359 gam.
- Chất bột màu vàng trong mẫu ký hiệu A5 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu A5: 10,551 gam.
- Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu B1a, C gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu B1a: 2,886 gam; C: 2,973 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Mai Thị Mỹ L là: 504,773 gam, trong đó:
Ketamine 102,158 gam ; MDMA 399,729 gam; Methamphetamine 2,886 gam.
Khối lượng ma túy thu giữ của Phan Văn T là: 2,973 gam loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra xác định:
Khoảng giữa tháng 9/2020, Mai Thị Mỹ L giúp sức cho Võ Thanh V mua bán trái phép chất ma túy. L nhận ma túy từ V và giao cho người khác theo sự phân phối của V. L và V sử dụng phần mềm WhatsApp do V yêu cầu để liên lạc với nhau.
Nguồn gốc số ma túy trong hộp giấy màu vàng thu giữ khi bắt quả tang Mai Thị Mỹ L là của Võ Thanh V gửi cho L cất giấu trước đó một tuần để bán cho con nghiện. L nghi ngờ bị Công an phát hiện theo dõi nên điện thoại cho V báo không giao ma túy nữa, V nói với L sẽ chuyển số ma túy đi chỗ khác. Đến trưa ngày 16/10/2020, Võ Thanh V sử dụng phần mềm WhatsApp từ số điện thoại 0708222221(số điện thoại này V mua của anh Nguyễn Công H) nhắn tin đến số điện thoại 0935866175 của Trần Hồng S (là tài xế Grab), yêu cầu S đến nhà của L tại phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng để lấy hộp giấy màu vàng có chứa số ma túy trên mang đến địa chỉ số K249/25 H H Tập, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng là nhà của Phan Văn T để giao cho V qua số điện thoại 0905596896 nhưng bị phát hiện và bắt quả tang. Nguồn gốc số ma túy ở trong nhà mà L giao nộp là của V, được L dồn lại trong những lần bán ma túy cho V trước đó.
Đối với Phan Văn T không thừa nhận hành vi mua bán ma túy nhưng Phan Hoàng H là người mua ma túy của T khai nhận: Ngày 15/10/2020 mua của T nửa hộp 5 (năm) ma túy đã giá 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng) để sử dụng. Ngày 16/10/2020, H đến nhà T tại số K249/25 Đường H H Tập, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng mua 02 (hai) hộp ma túy 10 (mười) giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), chưa kịp mua ma túy thì bị Công an quận L, thành phố Đà Nẵng phát hiện mời về làm việc.
Ngoài ra, Mai Thị Mỹ L khai nhận: Chiều tối ngày 15/10/2020, bạn của L là H (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc với L nhờ mua giúp 50 (năm mươi) viên thuốc lắc và 50 (năm mươi) gam Ketamine. L liên lạc với T, T đồng ý bán với giá 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng). Sau đó L hẹn H đến gần nhà L để giao tiền, H giao cho L 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng) còn nợ 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng), L cho H địa chỉ nhà T tại số K249/25 Đường H H Tập, phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng và số điện thoại 0905080905 của T để H đến nhận ma túy. Số tiền 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng) đã bị thu giữ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm 95/2021/HS-ST ngày 15-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
I. Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo Võ Thanh V, Mai Thị Mỹ L và Phan Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
II. Về hình phạt:
1. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh V tù “Chung thân”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, 10/6/2021.
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Bị cáo Phan Văn T: 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, 16/10/2020.
Ngoài ra bản án còn quyết định về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Mai Thị Mỹ L (Án sơ thẩm xử phạt bị cáo Mai Thị Mỹ L 20 năm tù nhưng bị cáo L không kháng cáo), phần hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/12/2021, bị cáo Võ Thanh V có đơn kháng cáo kêu oan.
Ngày 24/12/2021, bị cáo Phan Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng khẳng định rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án có căn cứ và đúng pháp luật. Với những chứng cứ vật chất và chứng cứ lời khai có tại hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Thanh V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, không oan. Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Phan Văn T 10 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, không nặng, bị cáo T kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Thanh V, Phan Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong luận cứ bào chữa của mình, các Luật sư Trần Văn Hoà, Đỗ Ngọc Quang và Nguyễn Thế Anh, bào chữa cho bị cáo Võ Thanh V, đều đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Bị cáo Võ Thanh V kháng cáo kêu oan nhưng trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, xem xét ý kiến của Luật sư và quan điểm của Viện kiểm sát, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Võ Thanh V không thừa nhận hành vi phạm tội và giữ nguyên nội dung kháng cáo kêu oan. Bị cáo Phan Văn T thừa nhận hành vi và tội danh như Toà án cấp sơ thẩm xét xử là đúng, chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt.
[2] Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo Võ Thanh V, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Mặt dù trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Võ Thanh V không thừa nhận có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng với bị cáo L. Tuy nhiên, qua xem xét lời khai nhận tội của bị cáo L, lời khai của những người có liên quan; biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định về khối lượng các chất ma túy, những dữ liệu điện thoại, tin nhắn thu giữ được từ các số điện thoại của bị cáo L, của anh Trần Hồng S (tài xế xe Grab), anh Nguyễn Công H (người bán sim điện thoại cho bị cáo V) và lời khai của bị cáo V tại phiên tòa về việc bị cáo thừa nhận sim điện thoại số 0708222221 là do bị cáo mua của anh Nguyễn Công H với số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để sử dụng, (nhưng bị cáo để anh H là người đứng tên đăng ký với nhà mạng), cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:
Bị cáo V là đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, tháng 9/2020, bị cáo Mai Thị Mỹ L do không có việc làm ổn định nên đã liên lạc với bị cáo V hỏi có việc gì làm cho bị cáo tham gia để kiếm tiền nuôi con. Trên cơ sở đó bị cáo V nhờ bị cáo L giúp sức cho bị cáo V trong việc mua bán trái phép chất ma túy thì được bị cáo L đồng ý, hình thức thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy giữa bị cáo V và L là V giao ma túy cho L cất giấu tại nhà, khi có đối tượng hỏi mua ma túy từ V, thì V sử dụng sim số điện thoại 0708222221 (mua của H, do H đứng tên) liên lạc nhắn tin cho bị cáo L số điện thoại 0936664634 qua ứng dụng phần mềm WhatsApp (do V yêu cầu) để liên lạc với nhau trong việc mua bán ma túy. Vì vậy, từ tháng từ 9/2020 cho đến ngày bị bắt 16/10/2020 bị cáo L đã 05 lần nhận ma túy của V (trong đó tại nhà V 01 lần, nhà T 03 lần và 01 lần từ người lái xe Grab (BL 135) để đi giao bán cho các đối tượng mua ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo sự chỉ đạo của V. Trong thời gian bị cáo L lén lút thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho V thì bị cáo L có nghi ngờ đang bị Công an theo dõi, nên đã điện thoại trao đổi cho bị cáo V biết để dừng không giao ma túy nữa, thì V nói với bị cáo L sẽ chuyển số ma túy đi nơi khác. Vì vậy, trưa ngày 16 tháng 10 năm 2020, V sử dụng phần mềm WhatsApp từ sim điện thoại số 0708222221(mua của H) nhắn tin đến số điện thoại của bị cáo L có nội dung “Bỏ tất cả ma túy vào trong hộp sẽ có người tới nhận, người này có số điện 0935866175 là xe Grab” (BL số 133), đồng thời V cũng sử dụng phần mềm WhatsApp từ sim điện thoại số 0708222221(mua của H) nhắn tin đến số điện thoại 0935866175 của Trần Hồng S (chạy xe Grab) yêu cầu anh S đi đến tại địa chỉ Tổ 25, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (nhà của cha mẹ L) để nhận một hộp giấy màu vàng (bên trong có chứa ma túy) của một người phụ nữ có số điện thoại 076341305 có người đưa hàng để vận chuyển về số nhà 249 Đường H H Tập, quận T, thành phố Đà Nẵng (nhà của bị cáo T) gọi vào số điện thoại 0905596096 (số của V) có người nhận hàng trả tiền (BL số 325), thực hiện theo yêu cầu của V anh S đi xe Grab đến trước nhà ông Mai H (nhà cha mẹ L) tại Tổ 125, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, khi L đang giao cho anh S 01 (một) túi ni lông màu đen bên trong có hộp giấy màu vàng (bên trong có chứa ma túy) thì bị lực lượng Công an quận L, thành phố Đà Nẵng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 13 giờ 30 ngày 16/10/2020, sau khi bị bắt bị cáo L còn giao nộp thêm 01 (một) gói ni long bên trong chứa các chất ma túy L khai là của V (BL số 66-67). [3] Tại bản tường thuật ngày 16/10/2020 (BL 133), Mai Thị Mỹ L khai: cách đây một tháng do hoàn cảnh khó khăn, tôi có liên hệ với anh V (không rõ họ tên, địa chỉ, chỉ biết ở đường Đ, phường Hoà Khánh Bắc, quận L) dùng số điện thoại 0905596896, nhờ anh V kiếm việc cho tôi làm; anh V trao đổi là hiện nay anh V mua bán ma tuý, nếu em có làm thì làm cho anh, anh sẽ không để em thiệt thòi; từ lúc đó cho đến khi bị bắt, tôi đã nhiều lần nhận ma tuý của anh V, lần đầu tiên là ở nhà anh V trên đường Đ, gói ma tuý số lượng tầm một trăm mấy mươi viên và 2/3 gói ketamine tầm mười mấy gam; những lần sau thì có người đưa đến cho tôi hoặc tôi xuống nhà anh T lấy, tại địa chỉ 249/25, H H Tập, quận T, thành phố Đà Nẵng; khi cần giao cho ai đó, thì anh V sẽ gọi cho tôi và tôi sẽ giao số ma tuý cho người cần mua, còn tiền bạc anh V tự tính toán; trưa ngày 16/10/2020, tôi nhận được tin nhắn từ số điện thoại 0708222221 qua ứng dụng WhatsApp của anh V nội dung là bỏ tất cả ma túy vào trong hộp sẽ có người tới nhận, người này dùng số điện thoại 0935866175 là lái xe Grap; đến 13 giờ 21 phút ngày 16/10/2020, khi tôi đang giao số ma tuý cho người lái xe Grap thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang; số ma tuý mà tôi đưa cho lái xe Grap gồm 8 bao ni long bên trong chứa 594 viên thuốc lắc màu vàng, 7 bao ni long trong đó chứa 519 viên thuốc lắc màu hồng, 1 bao ni long trong đó chứa 1,5 viên thuốc lắc màu cam, 5 bao ni long chứa tinh thể màu trắng là ma tuý hàng đá và Ketamine, 01 cân tiểu ly màu đen. Tất cả bỏ trong một hộp giấy màu vàng cùng với một bao nilong chứa chất bột màu vàng là loại ma tuý thuốc lắc đã được nghiền nát bỏ vào trong bao ni long đen đưa cho người lái xe Grap. Tại bản tường trình ngày 19/10/2020 (BL 135) Mai Thị Mỹ L khai: Tôi đã nhiều lần nhận ma tuý thuốc lắc, Ketamine, hàng đá của anh V, trong đó có một lần tôi nhận ma tuý tại nhà anh V ở đường Đ, 03 lần tôi nhận ma tuý anh T (tên thường gọi là Út, nhà số 249/25 H H Tập), 01 lần do thanh niên đi Grap mang đến; tất cả những lần nhận ma tuý này của anh V về nhà cất giấu; trưa ngày 16/10/2020, tôi ở nhà thì nhận điện thoại từ số 0708222221, qua ứng dụng phần mền WhatsApp của anh V; tôi liên lạc với V qua số điện thoại 0905596896, thời gian gần đây liên lạc với anh V qua số điện thoại 07008222221 trên ứng dụng WhatsApp; anh V có hướng dẫn tôi tải phần mền ứng dụng WhatsApp về điện thoại của tôi để liên lạc với anh V; tôi đao phần mên WhatsApp về điện thoại của tôi, sau đó sử dụng số điện thoại 0936664634 của tôi để đăng ký, còn anh V dùng số điện thoại 0708222221; anh V nhiều lần cho tôi tiền, tổng cộng anh V đưa cho tôi khoảng 35-36 triệu. Tại biên bản đối chất ngày 29/9/2021, giữa Võ Thanh V và Mai Thị Mỹ L (BL 321; 322), Mai Thị Mỹ L khai: Nguồn gốc số ma tuý bắt quả tang ngày 16/10/2020 là của anh Võ Thanh V giao cho tôi trước đó qua một người lái xe Grap để bán cho người khác; sau đó tôi sợ bị bắt nên điện thoại cho anh V để nhận lại; ngày 16/10/2020 có anh Grap đến nhận để giao cho anh V thì bị bắt quả tang; số ma tuý đó là của anh V giao cho tôi để bán, sau đó tôi cất tại nhà, tôi tự giao nộp, còn cái cân điện tử cũng của anh V đưa cho tôi để cân ma tuý.
[4] Trong quá trình điều tra, anh S (xe Grab) còn khai trước đó đã 02 lần vào các ngày 12 và 15/10/2020 vận chuyển giao hàng cho người có số điện thoại 0708222221 (số V mua của H) tại kiệt L - L và Đường H nhận tiền công 300.000 đồng – 200.000 đồng (BL số 325; 327; 328), đồng thời thu thập thông tin về các tin nhắn qua phần mềm WhatsApp trên dữ liệu điện tử số điện thoại của anh S với số điện thoại 0708222221 (số V mua của H, anh S lưu tên Yến) được thể hiện từ (các BL số 335-339); các tin nhắn của V từ số điện thoại 0708222221 với số điện thoại của bị cáo L về việc trao đổi giao dịch mua bán trái phép chất ma túy trên phần mềm WhatsApp (các BL số: 174 -191); các tin nhắn điện thoại giữa Võ Thiên V với Nguyễn Công H (người bán sim số 0708222221 cho V) thể hiện từ (các BL số 366 – 406); lời khai của bị cáo T thừa nhận ngày 16/10/2020 V có đến nhà, bị cáo T có hỏi đến làm gì thì V nói đợi người qua lấy đồ, đồng thời T khai thông qua bạn bè ngoài xã hội nghe nói “V làm ma túy” nhưng không quan tâm (các BL 236-238; 244-249); ngoài ra đối tượng Nguyễn Vũ T còn khai có mua ma túy của V một lần vào ngày 12/10/2020 với số lượng 50 viên giá 180.000 đồng/viên (BL số 419; 420). Cụ thể như tại bản tường thuật của Trần Hồng S ngày 16/10/2020 (BL 325), Trần Hồng S khai: Bản thân tôi làm nghề Grap, 11 giờ 56 phút ngày 16/10/2020, tôi nhận được tin nhắn từ số điện thoại 0708222221, qua ứng dụng WhatsApp của một nam thanh niên, nói tôi qua đường 21 Nhơn Hòa 10 rồi gọi điện thoại đến số 076341305 sẽ có người đưa tôi một gói hàng, sau khi vận chuyển và nhận gói hàng thì mang đến số 249 H H Tập gọi đến số điện thoại 0905596896 thì sẽ có người nhận hàng và tiền ship cho tôi, tôi đồng ý; 13 giờ 30 phút tôi đến kiệt 21 N 10 thì có số điện thoại 076341305 của một phụ nữ cho tôi vào nhà 125 phường H và đưa cho tôi một bao ni long màu đen, sau đó bị Công an bắt quả tang; tôi đã hai lần giao hàng thành công cho người thanh niên này. Tại biên bản nhận dạng ngày 16/10/2020 (BL 331), Trần Hồng S sau khi quan sát kỹ các bức ảnh đã nhận dạng ra người trong ảnh số 02, chính là Võ Thanh V, sử dụng số điện thoại 0708222221. Tại bản tường trình ngày 23/10/2020 (BL 360), Nguyễn Công H khai: Ngày 29/8/2020, Võ Thanh V có nhắn tin qua phần mền Mesenger với tên Võ Thiên V cho tôi để hỏi mua sim số điện thoại 0708222221, tôi bán số sim điện thoại này cho V với giá 5 triệu đồng. Tại biên bản ghi lời khai của Nguyễn Công H, ngày 23/10/2020 (BL 361), H khai: Tôi bán sim điện thoại 0708222221 cho V, giá 5.000.000 đồng, giữa trưa ngày 29/8/2020, tôi biết V tên đầy đủ là Võ Thanh V, trú tại đường Đ, phường H, quận L. Tại các bút lục 363, 364, 365 Nguyễn Công H nhận dạng ra Võ Thanh V, bức ảnh số 03. Tại biên bản khám xét ngày 16/10/2020, tại chổ ở của Võ Thanh V, căn hộ 1608 F, tại khu F, Đường L, quận H, thành phố Đà Nẵng, có tạm giữ đồ vật liên quan:...01 điện thoại Nokia màu đen, gắn thẻ sim 0762576779; 01 điện thoại Nokia màu xanh gắn thẻ sim 0708222221. (BL 87; 88, có chữ ký và ghi rõ họ tên Võ Thanh V) tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Võ Thanh V thừa nhận có mua và sử dụng sim điện thoại số 0708222221.
[5] Tại kết luận giám định số: 311/GĐ-MT ngày 23/10/2020 của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng thì tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ được khi bắt quả tang và do bị cáo L giao nộp là 504,773 gam (Trong đó: 102,158 gam Ketamine; 399,729 gam MDMA; 2,886 gam Methamphetamine).
Với những chứng cứ, phân tích và lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Thanh V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 BLHS, là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
[6] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Phan Văn T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, mặt dù quá trình điều tra giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm bị cáo không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy, nhưng tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Phan Văn T thừa nhận Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng với hành vi của bị cáo đã thực hiện, chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt.
Lời khai tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận ngày 16/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L đã khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của bị cáo số K249/25 Đường H H Tập, thành phố Đà Nẵng, phát hiện và thu giữ 2,973 gam ma túy loại Methamphetamine của bị cáo mua trước đó của một đối tượng tên Bon (không rõ lai lịch) tại bến xe, với mục đích để sử dụng. Song tài liệu chứng cứ, thu giữ và lời khai của đối tượng mua ma túy Phan Hoàng H khai nhận đã 02 lần mua ma túy của bị cáo T vào các ngày 15/10/2020 mua của T nửa hộp 05 ma túy đá giá 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) để sử dụng. Ngày 16/10/2020, H đến nhà T tại K249/25 Đường H H Tập, thành phố Đà Nẵng mua 02 hộp ma túy giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), chưa kịp mua ma túy thì bị Công an quận L phát hiện mời về làm việc (các BL 347 - 357), lời khai này phù hợp với lời khai bị cáo Mai Thị Mỹ L thừa nhận: Chiều tối ngày 15/10/2020, bạn của L là H (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc với L nhờ mua giúp 50 viên thuốc lắc và 50 gam Ketamine. L liên lạc với T, T đồng ý bán với giá 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng). Sau đó L hẹn H đến gần nhà L để giao tiền, H giao cho L 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng) còn nợ 11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng). L cho H địa chỉ nhà T tại K249/25 Đường H H Tập, thành phố Đà Nẵng và số điện thoại 0905080905 của T để H đến nhận ma túy và tại đây H bị mời về trụ sở Công an làm việc. Mặt khác, khi khám xét nhà bị cáo T, cơ quan Công an quận L, còn thu giữ một số vật chứng như cân tiểu ly, bao ni long, đây là các vật chứng sử dụng vào việc mua bán ma túy. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phan Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Xét thấy, trong vụ án này khối lượng ma túy bị cáo T mua bán là 2,973 gam loại Methamphetamine nhưng do bị cáo T mua bán nhiều lần nên thuộc tình tiết định khung “phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, bị cáo bị truy tố độc lập về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần theo tình tiết định quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào, do đó Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 10 năm tù là tương xứng với tính chất hành vi và hậu quả của vụ án do bị cáo thực hiện và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý hiện nay. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo cho rằng gia đình bị cáo đã nộp khoản tiền 10.000.000 đồng về hình phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm nhưng mẹ bị cáo bà Trần Thị Thu trình bày là chưa nộp nên không có cơ sở xem xét. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
Từ những vấn đề phân tích và lập luận trên, thấy rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án có căn cứ và đúng pháp luật. Kháng cáo kêu oan của bị cáo Võ Thanh V và kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Phan Văn T không có cơ sở nên không được chấp nhận, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm.
[7] Trong vụ án này quá trình điều tra cơ quan điều tra có thiếu sót là không lập biên bản niêm phong khi thu giữ hai điện thoại của Võ Thanh V. Tuy nhiên, thiếu sót này không ảnh hưởng đến việc xác định hành vi phạm tội của bị cáo Võ Thanh V. Tại biên bản khám xét ngày 16/10/2020, tại chổ ở của Võ Thanh V (căn hộ 1608 F, tại khu F, Đường L, quận H, thành phố Đà Nẵng), tạm giữ đồ vật liên quan là hai điện thoại di động của Võ Thanh V, có thẻ sim 0762576779 và thẻ sim 0708222221, cuối biên bản có chữ ký, ghi rõ họ tên Võ Thanh V (BL 87). Do đó, không cần thiết phải huỷ án để điều tra lại như quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo V. Đề nghị của các Luật sư bào chữa cho bị cáo Võ Thanh V về huỷ Bản án sơ thẩm, giao về cấp sơ thẩm điều tra lại không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy dịnh tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh V và kháng cáo của bị cáo Phan Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh V tù “Chung thân”, về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/6/2021.
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Xử phạt: Bị cáo Phan Văn T: 10 (Mười) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/10/2020.
3. Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Phạt tiền: Bị cáo Võ Thanh V 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) và bị cáo Phan Văn T 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.
4. Về án phí phúc thẩm hình sự:
Các bị cáo Võ Thanh V, Phan Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 171/2022/HS-PT
Số hiệu: | 171/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về