TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 163/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 04 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 162/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 08 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 09 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Hữu L (Nhỏ), sinh năm 1993 tại thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: khu K, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Hữu N (đã chết) và bà Huỳnh Thị Thu V; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: không; Tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 24/12/2020 và chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành. “Có mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 23/12/2020 Công an huyện Long Thành phối hợp Công an thị trấn Long Thành kiểm tra hành chính tại phòng trọ do Phạm Hữu L thuê ở tổ 4, khu K, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai thì có mặt Phạm Hữu L, Đỗ Phi H, Lê Quốc T, Cao Minh T1 và Lê Thanh P. Quá trình kiểm tra phát hiện trong phòng vệ sinh có 01 gói ma túy có kích thước 07cm x 04cm; chỗ Đỗ Phi H đang ngồi có 01 gói ma túy có kích thước 07cm x 04cm;
trong túi quần Jean phía trước, bên trái của Phạm Hữu L có 07 gói ma túy (trong đó có 06 gói ma túy có kích thước 02cm x 02cm và 01 gói có kích thước 04cm x 7,5cm; phía sau cánh cửa chính có 07 gói ma túy (trong đó có 06 gói ma túy có kích thước 2cm x 02cm và 01 gói ma túy có kích thước 07cm x 04cm); trong cốp xe Vision biển số 68E1-062.41 của Lê Quốc T có 01 gói ma túy có kích thước 10cm x 15cm. Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của T ở ấp 3, xã B, huyện L, lực lượng công an phát hiện 01 gói ma túy có kích thước 04cm x 07cm.
Quá trình điều tra xác định: Phạm Hữu L, Đỗ Phi H, Lê Quốc T, Cao Minh T1 và Lê Thanh P là bạn bè và đều là các đối tượng nghiện ma túy.
- 02 gói ma túy có kích thước 07cm x 04cm thu giữ trong phòng vệ sinh và chỗ ngồi của Đỗ Phi H là của H, do H mua của Lê Quốc T với giá là 4.000.0.000 đồng với mục đích để sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người nghiện khác.
- 07 gói ma túy thu giữ phía sau cánh cửa chính, 01 gói ma túy thu giữ trong cốp xe Vision biển số 68E1-062.41 (Đỗ Phi H lấy giúp số ma túy này cho T tại chân cầu vượt cao tốc Long Thành-Dầu Giây thuộc xã Long An, huyện Long Thành) và 01 gói ma túy thu giữ tại nơi ở của T đều là ma túy của T mua về với mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người nghiện khác.
- Đối với 07 gói ma túy thu giữ trong túi quần của Phạm Hữu L, L khai nhận vào khoảng 08 giờ ngày 23/11/2020 người đàn ông tên Hải (không rõ nhân thân, lai lịch) đến phòng trọ của L chơi và bán cho L 01 gói ma túy không rõ kích thước với giá 5.000.000 đồng. Sau đó, L chia thành 10 gói nhỏ để sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác. L dã bán 01 gói ma túy cho người đàn ông tên Đen (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 400.000 đồng; đã sử dụng hết 02 gói, còn lại 07 gói L cất giấu trong túi quần Jean phía trước bên trái thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện. Ngoài ra, L đã 01 lần bán ma túy cho Lê Minh T2 với giá 300.000 đồng vào ngày 21/12/2020 và trong khoảng thời gian từ tháng 09/2020 đến ngày 21/12/2020, L đã bán ma túy cho Vũ Trung H2 từ 4 đến 05 lần nhưng không xác định được tổng số tiền L thu lợi bất chính từ việc bán ma túy cho T2 mà chỉ có căn cứ xác định số tiền L bán ma túy cho T2 vào ngày 21/12/2020 là 200.000 đồng. Do đó, tổng số tiền L thu lợi bất chính từ việc bán ma túy cho người đàn ông tên Đen; Lê Minh T2 và Vũ Trung T2 là là 900.000 đồng.
Tại Kết luận giám định số 2974/KLGD-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,9354 gam, loại Methamphetamine (07 gói ma túy của Lê Quốc T thu giữ phía sau cánh cửa chính).
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 25,2033 gam, loại Methamphetamine (01 gói ma túy của Lê Quốc T thu giữ trong cốp xe Vision).
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 7,3675 gam, loại Methamphetamine (01 gói ma túy thu giữ tại phòng trọ của T).
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M4) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 3,4826 gam, loại Methamphetamine (07 gói ma túy của Phạm Lữu L).
- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M5) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 7,1670 gam, loại Methamphetamine (02 gói ma túy của Đỗ Phi H).
Đối với Lê Quốc T và Đỗ Phi H: Quá trình lấy lời khai T và H khai nhận cất giấu ma túy với mục đích sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác. Tổng số ma túy T mua bán là 34,5062 gam, loại Methamphetamine, tổng số ma túy H mua bán là 32,3703 gam loại Methamphetamine nên thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh. Ngày 31/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã chuyển hồ sơ và vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Quốc T và Đỗ Phi H đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) - Công an tỉnh Đồng Nai để điều tra theo thẩm quyền.
Vật chứng vụ án:
- 07 gói ma túy (trong đó có 06 gói ma túy có kích thước 02cm x 02cm và 01 gói có kích thước 04cm x 7,5cm) đựng trong phong bì được niêm phong số 2974B/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
- 1 điện thoại di động Nokia màu xanh trắng có số thuê bao 0937.547.347 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen có số thuê bao 0902.704.715 của Phạm Hữu L.
Tại Cáo trạng số: 172/CT-VKSLT ngày 19 tháng 08 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Phạm Hữu L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng số: 172/CT-VKSLT ngày 19 tháng 08 năm 2021.
Sau khi phân tích và luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Hữu L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt Phạm Hữu L từ 07 năm đến 08 năm tù.
Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 07 gói ma túy (trong đó có 06 gói ma túy có kích thước 02cm x 02cm và 01 gói có kích thước 04cm x 7,5cm đựng trong phong bì được niêm phong số 2974B/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
Đề nghị tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 1 điện thoại di động Nokia màu xanh trắng có số thuê bao 0937.547.347 và 01 DTDD hiệu Oppo màu đen có số thuê bao 0902.704.715 của Phạm Hữu L là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong cáo trạng, nội dung phân tích, luận tội của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa và không có ý kiến bào chữa gì thêm. Đồng thời, trong lời nói sau cùng, bị cáo cũng đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng và làm người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do các bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp là đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì về tính hợp pháp của các chứng cứ nên những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, có căn cứ xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2020 đến ngày 23/12/2020, Phạm Hữu L đã thực hiện hành vi mua ma túy của một người đàn ông tên Hải (không rõ nhân thân, lai lịch) với mục đích sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể: L đã 01 lần bán ma túy cho người đàn ông lên Đen (không rõ nhân thân, lai lịch); 01 lần bán ma túy cho Lê Minh T3 và 04 đến 05 lần bán ma túy cho Vũ Trung T2. Tổng số tiền L thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 900.000 đồng. Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 23/12/2020, tại phòng trọ do L thuê ở tổ 4, khu K, thị trấn, huyện L, tỉnh Đồng Nai, Công an huyện Long Thành và Công an thị trấn Long Thành bắt quả tang L có hành vi cất giấu 3,4820 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại cho những để lấy tiền mua ma túy và tiêu xài.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của ban đầu của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng do muốn kiếm tiền bằng con đường bất chính và thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên bị cáo đã cố ý hành động phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ nhằm mục đích mua bán bị bắt quả tang là 3,4826 gam, loại Methamphetamine. Ngoài ra, bị cáo thừa nhận có bán ma túy cho nhiều lần cho T2, T2 và Đen.
Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Hữu L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo Phạm Hữu L là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, hình phạt dành cho bị cáo cần phải nghiêm khắc nhằm răn đe phòng ngừa tội phạm.
Về tình tiết tăng nặng: Không.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
Xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành một người có ích cho xã hội.
Đối với Vũ Trung T2 và Lê Minh T2 có hành vi mua ma túy của Phạm Hữu L để sử dụng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã xử phạt hành chính theo quy định pháp luật.
Đối với người đàn ông tên Hải (không rõ nhân thân, địa chỉ) và người đàn ông tên Đen (không rõ nhân thân, địa chỉ), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh, xử lý sau.
[4] Xử lý vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy 01 bao thư bên trong có chứa chất Methamphetamine khối lượng 3,4590 gam đã được niêm phong số 2974B/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai (hoàn lại sau giám định);
Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại hiệu Nokia màu trắng có số thuê bao 0937.547.347, 01 điện thoại hiệu OPPO màu đen có số thuê bao 0902.704.715.
(Số vật chứng này hiện do Chi cục thi hành án dân sự tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/08/2021)
[5] Về biện pháp tư pháp:
Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 900.000 đồng.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và truy tố, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Hữu L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Hữu L 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2020.
Xử lý vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy 01 bao thư bên trong có chứa chất Methamphetamine khối lượng 3,4590 gam đã được niêm phong số 2974B/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai (hoàn lại sau giám định);
Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại hiệu Nokia màu trắng có số thuê bao 0937.547.347, 01 điện thoại hiệu OPPO màu đen có số thuê bao 0902.704.715.
(Số vật chứng này hiện do Chi cục thi hành án dân sự tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/08/2021)
Về biện pháp tư pháp:
Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 900.000 đồng.
Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 163/2021/HS-ST
Số hiệu: | 163/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về