Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm th lý số: 276/2023/TLST - HS ngày 29/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 332/2023/QĐXXST - HS ngày 27/12/2023 đối với bị cáo:

Trần Bảo Q1, sinh ngày 20/6/19xx, tại tỉnh Q; nơi thường trú: tổ x, khu xb, phường H1, thành phố H, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 và bà Nguyễn Thị L1; có vợ Hoàng Thị D1 và 02 con; tiền sự, tiền án: không; Nhân thân: Ngày 20/11/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 03 năm tù, về tội “Cướp tài sản”. Ngày 14/01/2013, Công an thành phố H, tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”. Ngày 28/3/2019, Công an phường H1, thành phố H, tỉnh Q, xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản” . Ngày 30/8/2019, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ s cai nghiện ma túy tỉnh Q. Bị bắt tạm giữ ngày 24/8/2023, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt.

Người làm chứng: Triệu Quý N2, Phạm Ngọc T2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong các ngày 14/8/2023 và ngày 22/8/2023, tại khu vực phòng trọ của Triệu Quý N2, thuộc thôn T6, xã L5, thành phố H, tỉnh Q, Trần Bảo Q1 có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Triệu Quý N2 02 lần, với tổng số tiền 800.000 đồng. Đến khoảng 19 giờ 10 phút ngày 24/8/2023, tại khu vực cổng chào thuộc tổ 4, khu 7, phường H1, thành phố H, tỉnh Q, Trần Bảo Q1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,722 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để bán thì bị Công an tỉnh Q phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 02 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động, 01 căn cướccông dân, 10 vỏ túi nilon và số tiền 200.000 đồng.

Bản Kết luận giám định số: 1228/KL - KTHS ngày 29/8/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh Q, kết luận: 02 túi nilon thu giữ của Trần Bảo Q1 là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,722 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau: Bị cáo sử dụng ma túy dạng đá từ năm 2016, do không có việc làm ổn định bị cáo nảy sinh ý định mua ma túy về bán kiếm lời. Vào khoảng 11 giờ ngày 24/8/2023 bị cáo đến khu vực T6, thành phố H3 gặp mua của một người đàn ông tên T1 01 túi ma túy đá với giá 600.000 đồng , sau khi mua được ma túy về nhà bị cáo chia làm 02 túi nilon mục đích để bán. Khoảng 19 giờ 10 phút bị cáo đem theo 02 túi ma túy đá đi đến khu vực cổng chào thuộc tổ 4, khu 7, phường H1, thành phố H, tỉnh Q mục đích để bán, bị cáo chưa kịp bán thì bị Công an bắt quả tang. Trước ngày bị bắt, bị cáo đã 02 lần bán ma túy cho Triệu Quý N2; lần thứ nhất vào khoảng 16 giờ ngày 14/8/2023 N2là bạn của bị cáo gọi điện thoại cho bị cáo hỏi mua 300.000 đồng ma túy và bảo bị cáo mang ma túy đến khu vực phòng trọ của N2tại thôn T6, xã L5, thành phố H, tỉnh Q, giao nhận ma túy, tại phòng trọ bị cáo bán cho N201 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Lần thứ hai: vào khoảng 20 giờ, ngày 22/8/2023, cũng phòng trọ của Ngân, tại thôn T6, xã L5, thành phố H, tỉnh Q, bị cáo đã bán cho N201 túi ma túy dạng đá với giá 500.000 đồng.

Người làm chứng có lời khai xác nhận:

Triệu Quý N2 khai: N2sử dụng ma túy đá từ năm 2020 và có quen biết bị cáo Q2 khi cùng cai nghiện tại cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Q. Sau khi hoàn thành chương trình cai nghiện, hai bên có số điên thoại của nhau. N2đã hai lần mua ma túy đá của Q2 để sử dụng. Lần thứ nhất vào khoảng 16 giờ ngày 14/8/2023, N2gọi điện thoại cho Q2 hỏi mua ma túy và bảo Q2 đem ma túy đến phòng trọ của N2tại thôn T5xã L5, thành phố H , tỉnh Q, N2đã mua của Q2 01 gói ma túy dạng đá với giá 300.000 đồng. Lần thứ hai vào khoảng 20 giờ, ngày 22/8/2023 cũng tại phòng trọ của Ngân, N2đã mua của Q2 01 gói ma túy dạng đá với giá 500.000 đồng.

Người chứng kiến anh Phạm Ngọc T2 có lời khai xác nhận: vào hồi 19 giờ 10 phút ngày 24/8/2023 tại khu vực cổng chào thuộc tổ 4, khu 7, phường H1, thành phố H, tỉnh Q, anh được chứng kiến Công an bắt quả tang Trần Bảo Q1 đang cầm 02 túi ma túy, Q2 khai là ma túy dạng đá cất giấu mục đích để bán.

Bản cáo trạng số: 268/CT-VKS - HL ngày 25/11/2023 của Viện KSND thành phố H truy tố bị cáo Trần Bảo Q1 tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên trình bày luận tội, đưa ra các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/8/2023; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Vật chứng: Áp d ng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,63 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong và 10 vỏ túi nilon; Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone, kèm 01 sim; Trả lại bị cáo 01 căn cước công dân. Truy thu của bị cáo số tiền 600.000 đồng do phạm tội mà có, sung ngân sách nhà nước.

Các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án:

Đối với đối tượng tên T1 bán ma túy cho Trần Bảo Q1, do không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với Triệu Quý N2 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Hạ long Quyết định xử phạt hành chính.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh t ng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và người chứng kiến; với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản khám xét; biên bản kiểm tra và thu giữ vật chứng; biên bản thu thập dữ liệu điện tử; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản m niêm phong và giao nhận đối tượng giám định, kết luận giám định; bản luận tội Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa. Với những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 14/8/2023 và ngày 22/8/2023, tại khu vực phòng trọ của Triệu Quý N2, thuộc thôn T6, xã L5, thành phố H, tỉnh Q, Trần Bảo Q1 có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Triệu Quý N2 02 lần, với tổng số tiền 800.000 đồng. Đến khoảng 19 giờ 10 phút ngày 24/8/2023, tại khu vực cổng chào tổ 4, khu 7, phường H1, thành phố Hạ long, tỉnh Q, Trần Bảo Q1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,722 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để bán.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, không những gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương mà còn tiếp tay cho những đường dây mua bán ma túy và làm gia tăng các loại tội phạm khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma túy nhưng không có ý thức chấp hành pháp luật đã mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi đó đã thỏa mãn dấu hiệu và đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; Nội dung luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội Cướp tài sản và hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Xâm hại sức khỏe của người khác và Trộm cắp tài sản.

Về tình tiết tăng nặng: không;

Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật cải tạo, giáo d c mình thành công dân tốt.

[4] Căn cứ vào quy định Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định, nhằm giáo d c bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời góp phần giáo d c người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng sử dụng ma tuý, không có công việc, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

Lượng ma túy 0,63 gam, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 10 vỏ tui nilon không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy;

01 căn cước công dân mang tên Trần Bảo Q1, trả lại bị cáo.

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, kèm 01 sim là công c , phương tiện phạm tội và số tiền 200.000 đồng do phạm tội mà có, tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Biện pháp tư pháp : Bị cáo 2 lần bán trái phép chất ma túy cho Triệu Quý N2 thu được tổng số tiền 800.000 đồng, trong đó 200.000 đồng khi bắt quả tang đã thu giữ và xử lý tại phần vật chứng, còn số tiền 600.000 đồng; đây là tiền do phạm tội mà có, nên truy thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 46; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Trần Bảo Q1 7 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/8/2023 về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 0,63 (không phảy sáu ba) gam ma túy, loại Methamphetamine và 10 (mười) vỏ túi nilon ;

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, kèm 01 sim.

Trả lại bị cáo 01 (một) căn cước công dân số 02208600xxxx mang tên Trần Bảo Q1.

Tình trạng vật chứng được thi hành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 52/BB - THA, ngày 28/11/2023 giữa Công an thành phố H và chi cục THA dân sự thành phố H và Biên bản giao nhận tài sản số 421/2023/BBBG – CQCSĐTCATPHL ngày 16/11/2023 giữa Công an thành phố H và Kho bạc Nhà nước tỉnh Q.

Biện pháp tư pháp: Truy thu của bị cáo Trần Bảo Q1 số tiền 600.000 đồng, sung vào ngân sách nhà nước.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Bảo Q1 phải chịu 200.000 đồng.

Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2024/HS-ST

Số hiệu:15/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về