Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 04 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an Hà Tĩnh. Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2022/TLST- HS, ngày 18 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST– HS ngày 07/4/2022 đối với bị cáo:

Trần Văn Q; sinh ngày: 12/5/1983 tại xã TL (nay là xã KST), huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi ĐKHHTT và chổ ở hiện nay: Thôn P, xã KST, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Trần Văn H và bà Hoàng Thị L. Có vợ: Phạm Thị H và 01 con.

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 16/11/2021, bị ủy ban nhân dân xã KST, huyện C ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng do có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý theo Quyết định số 466/QĐ-UBND.

Nhân thân: Ngày 27/6/2012, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh tuyên phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội Tổ chức đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999, theo Bản án số 19/HSST, đã chấp hành xong bản án, đã được xóa án tích;

Ngày 04/05/2015, bị Công an huyện C, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt hành chính 2.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc theo Quyết định số 46/QĐ-XPVPHC ngày 04/5/2015, đã nộp phạt ngày 04/5/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2021 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại điểm cầu thành phần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Cháu Lê Hoài N, sinh năm 2006, nghề nghiệp: Làm ruộng. Địa chỉ: Thôn P, xã KST, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt Người đại diện hợp pháp cho Lê Hoài N: Anh Lê Duy Ng, sinh năm 1982, nghề nghiệp: Buôn bán. Địa chỉ: Thôn P, xã KST, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1997, nghề nghiệp: Lao động tự do. Địa chỉ: Thôn T, xã Th, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt

- Anh Võ Quốc H, sinh năm 1996, nghề nghiệp: Lao động tự do. Địa chỉ: Thôn T, xã Th, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt - Chị Phạm Thị H, sinh năm 1983, nghề nghiệp: Giáo viên. Địa chỉ: Thôn P, xã KST, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt

- Anh Nguyễn Xuân Ch, sinh năm 1987, nghề nghiệp: Thợ mộc. Địa chỉ: Thôn T, xã KVY, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt

- Người tham gia tố tụng khác: Đồng chí Đại úy Nguyễn Văn Th - Cán bộ Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh, hỗ trợ phiên tòa tại điểm cầu thành phần.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Q là đối tượng nghiện ma túy và để có tiền mua ma túy sử dụng thì Q thường mua ma túy dạng đá về chia ra từng gói nhỏ để bán lại cho các đối tượng nghiện khác nhằm mục đích kiếm lời. Sáng ngày 07/12/2021, Trần Văn Q đón xe buýt đi từ thị trấn Ngh, huyện C đi vào thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh để mua ma túy. Khi xe chạy đến điểm dừng khu vực đối diện khách sạn Ngân Hà thì Q xuống xe rồi gặp một người đàn ông làm nghề chạy xe ôm không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Q đi đến gần và hỏi người chạy xe ôm đó có biết chỗ nào bán ma túy đá không để mua 1.600.000 đồng. Lúc này người điều khiển xe ôm lấy điện thoại ra gọi cho ai đó xong rồi trả lời với Q là “có”, sau đó chạy xe đi một lúc khoảng 15 phút thì quay lại và nói với Q đưa tiền. Q đưa cho người chạy xe ôm 1.600.000 đồng, nhận tiền xong thì người chạy xe ôm chỉ tay về phía lề đường bên phải cách chỗ Q đứng một đoạn rồi nói “lại đó lấy”, Q đi lại thì thấy một gói ni lông được cuốn băng dính màu đen, Q nhặt lên mở ra kiểm tra thì thấy chất ma túy đá nên bỏ vào túi quần rồi bắt xe buýt về nhà cất vào túi da màu đen để ở đầu giường tại phòng lồi tầng 1. Đến tối cùng ngày Q lấy ra một nửa số chất ma túy đã mua chia ra thành 12 túi ni lông nhỏ để bán lại kiếm lời.

Đến khoảng 16 giờ 10 phút ngày 08/12/2021 có Võ Quốc Hải sử dụng số điện thoại 0357766472 gọi điện đến số 0849915888 của Trần Văn Q để hỏi mua ma túy đá về sử dụng, Q đồng ý bán và hẹn H xuống nhà mình để lấy. Sau đó Nguyễn Văn T sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 38N6-1178 chở H đi xuống nhà Q để cùng mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, Trường lấy 300.000 đồng đưa cho H để góp cùng mua ma túy, H dùng điện thoại gọi cho Q và nói mua 500.000 đồng, Q đồng ý và nói với H đi lại gần cổng để lấy. Sau đó Q lấy thêm một ít chất ma túy bỏ thêm vào túi nhỏ đã chia sẵn trước đó rồi đưa cho Lê Hoài N, sinh ngày 12/7/2006, trú tại thôn P, xã KST, huyện C (N đã đến nhà Q chơi trước đó) nhờ N đưa ra cho H. Lúc này, T đứng ở ngoài chờ còn H đi bộ vào gần cổng nhà Q thì thấy Lê Hoài N đi ra, H đưa cho N 500.000 đồng qua khe cửa, N đưa lại cho H một gói nhỏ chất ma túy, H bỏ gói ma túy vào túi áo khoác rồi quay ra cùng với T đưa về nhà để sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 40 phút cùng ngày khi về đến đoạn đường trước trụ sở ủy ban nhân dân xã KST, huyện C thì bị lực lượng Công an huyện C yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính và phát hiện trong túi áo khoác bên phải của Võ Quốc H có 01 gói ni lông màu trắng, viền màu đỏ có kích thước (1,5x2)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, theo khai nhận của Võ Quốc H thì đó là ma túy đá vừa mua của Trần Văn Q để đưa về sử dụng, nên Công an huyện C đã lập biên bản và thu giữ niêm phong tang vật.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chổ ở của Trần Văn Q tại thôn P, xã KST, huyện C, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C phát hiện thu giữ 10 túi ni lông màu trắng viền màu đỏ, kích thước (1,5x2)cm và 01 túi ni lông màu trắng viền màu đỏ, kích thước (8x4)cm, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng, ở trong túi da màu đen để ở đầu giường trong phòng lồi tầng 1 và 01 túi ni lông màu trắng, kích thước (1,8x2)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, ở dưới nệm ghế sô pha trong phòng khách, theo khai nhận của Trần Văn Q trong các túi ni lông nói trên đều là ma túy đá được cất dấu để nhằm mục đích mua bán. Ngoài ra còn thu giữ một số tang vật có liên quan đến hoạt động mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 190/GĐMT-PC09 ngày 12/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận:

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lông màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (1,5x2)cm (ký hiệu A) gửi giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, có khối lượng là 0,0842 gam;

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 10 (mười) túi ni lông màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (1,5x2)cm (ký hiệu N) gửi giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, có khối lượng là 0,9539 gam;

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lông màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (8x4)cm (ký hiệu N) gửi giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, có khối lượng là 0,9383 gam;

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lông dán kín màu trắng, kích thước (1,8x2)cm (ký hiệu N) gửi giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, có khối lượng là 0,0755 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/05/2018 của Chính phủ.

* Tang vật thu giữ bao gồm:

+ 01 (một) túi ni lông màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (1,5x2)cm (ký hiệu A), bên trong có chứa 0,0842 gam, là Methamphetamine thu giữ trong túi áo của Võ Quốc Hải (sau khi lấy khối lượng 0,0236 gam để làm mẫu giám định, còn lại 0,0606 gam).

+ 10 (mười) túi ni lông màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (1,5x2)cm (ký hiệu N), bên trong chứa chất 0,9539 gam, là Methamphetamine thu giữ trong nhà của Trần Văn Q (sau khi lấy khối lượng 0,0357gam để làm mẫu giám định, còn lại 0,9182 gam).

+ 01 (một) túi ni lông màu trắng, viền màu đỏ, kích thước (8x4)cm (ký hiệu N), bên trong chứa 0,9383 gam, là Methamphetamine thu giữ trong nhà của Trần Văn Q (sau khi lấy khối lượng 0,0267 gam để làm mẫu giám định, còn lại 0,9116 gam).

+ 01 (một) túi ni lông dán kín màu trắng, kích thước (1,8x2)cm (ký hiệu N), bên trong chứa 0,0755 gam, là Methamphetamine thu giữ trong nhà của Trần Văn Q (sau khi lấy khối lượng 0,0268 gam để làm mẫu giám định, còn lại 0,0487 gam).

(Tất cả các mẫu A, N còn lại cùng toàn bộ vỏ, bao gói được cho vào một phong bì thư màu trắng, trên có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” rồi dán kín, trên các mép dán có chữ ký của các thành viên trong hội đồng và đối tượng rồi dán kín, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng và các thành phần tham gia) + 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO màu đen, lắp sim số 0357766472, đã qua sử dụng, thu giữ của Võ Quốc H;

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S, lắp sim số 0898602116, đã qua sử dụng, thu giữ của Nguyễn Văn T;

+ 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, mang biển kiểm soát 38N6-1178, đã qua sử dụng, thu giữ của Nguyễn Văn T;

+ 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy; 02 (hai) chiếc bật lửa màu đỏ, đã qua sử dụng và 10 (mười) túi ni lông màu trắng có viền màu đỏ, kích thước (2x1,5)cm thu giữ của Trần Văn Q;

+ 1.400.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thu giữ của Trần Văn Q;

+ 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, lắp sim số 0849915888, đã qua sử dụng, thu giữ của Trần Văn Q;

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu ghi, lắp sim số 0989920283, đã qua sử dụng, thu giữ của Trần Văn Q;

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng, không lắp thẻ sim, đã qua sử dụng, thu giữ của Lê Hoài N Ngày 03/3/2022 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã trả lại cho Nguyễn Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5SE, lắp sim số 0898602116, đã qua sử dụng; Trả cho anh Nguyễn Xuân C, trú tại xã KVY huyện C 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38N6-1178 đã qua sử dụng; Trả cho Trần Văn Q 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu ghi, lắp sim số 0989920283 đã qua sử dụng; Trả cho Lê Hoài N 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng, không lắp thẻ sim đã qua sử dụng.

Đối với các vật chứng còn lại đã được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C bảo quản, xử lý theo quy định Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKS–CL ngày 17/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Trần Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”quy định tại điểm e khoản 2 điều 251 BLHS.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 2; khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điều 38 BLHS xử phạt Trần Văn Q từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; phạt bổ sung từ 10 -15 triệu đồng Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư màu trắng, trên có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ”; 12 túi ni lông các loại bên trong chứa 1,9677 gam Methamphetamine; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy; 02 chiếc bật lửa màu đỏ, đã qua sử dụng và 10 túi ni lông màu trắng có viền màu đỏ; và 01 thẻ sim điện thoại số 0849915888 và 01 thẻ sim điện thoại số 0357766472.

+ Tịch thu, hóa giá, sung công quỹ 01chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, đã qua sử dụng của Trần Văn Q và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO màu đen, đã qua sử dụng của Võ Quốc H;

+ Tịch thu, sung quỹ 800.000 đồng đã thu giữ của Trần Văn Q do thu lợi bất chính;

+ Tạm giữ số tiền 600.000 đồng đã thu của Trần Văn Q để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST theo quy định.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại nên các hành vi, quyết định đó đảm bảo hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về tội danh:

Tại phiên Tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ khẳng định: Vào khoảng hơn 16 giờ ngày 08/12/2021, Trần Văn Q đã đưa cho Lê Hoài N 0,0842 gam Methamphetamine để bán cho Võ Quốc Hải. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Văn Q đã thu giữ thêm 1,9677 gam Methamphetamine, khối lượng Methamphetamine này Trần Văn Q tàng trữ nhằm mục đích để bán. Tổng khối lượng Methamphetamine bị thu giữ là 2,0519 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/05/2018 của Chính phủ. Bị cáo Trần Văn Q đã sử dụng Lê Hoài N (sinh ngày 12/7/2006) – là người dưới 16 tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi – để bán Methamphetamine. Bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS, không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 21 BLHS; lỗi của bị cáo là lỗi cố ý; mục đích thu lợi cá nhân. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm e khoản 2 điều 251 BLHS. Vì vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh theo điểm, khoản, điều luật nói trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, thấy rằng: Bị cáo nhận thức rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì ham muốn cá nhân, muốn có lợi nhuận nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội, càng nguy hiểm hơn khi bị cáo đã sử dụng người dưới 16 tuổi để cùng thực hiện hành vi phạm tội đó. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và sự phát triển của đất nước. Bị cáo đang có một tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã từng bị kết án về tội tổ chức đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, từ bỏ hành vi vi phạm pháp luật mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - Tình tiết tăng nặng: Không có - Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ TNHS và nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng mức hình phạt từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù áp dụng đối với bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có nghề nghiệp là lái xe, mua bán ma túy vì mục đích thu lợi nên cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 điều 251 BLHS.

[6]. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Khối lượng 1,9391 gam Methamphetamine còn lại (sau khi đã lấy 0,1128 gam để giám định) là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS.

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO màu đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen là phương tiện mà Trần Văn Q và Võ Quốc Hải dùng liên lạc để mua bán chất ma túy nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS.

- Đối với 1.400.000đ đã thu giữa của Trần Văn Q: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa, Trần Văn Q thừa nhận đã bán 300.000đ ma túy cho một người không quen biết và 500.000đ ma túy cho Võ Quốc H. Do đó tịch thu nộp vào Ngân sách nhà nước 800.000đ theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 47 BLHS, điểm b khoản 2 điều 106 BLTTHS. Số tiền 600.000đ còn lại cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án - 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy; 02 chiếc bật lửa màu đỏ, đã qua sử dụng; 10 túi ni lông màu trắng có viền màu đỏ; hai sim điện thoại số 0357766472 và 0849915888 cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 106 BLTTHS.

Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện C trả lại cho Nguyễn Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5SE, lắp sim số 0898602116, trả cho Nguyễn Xuân C 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38N6-1178, Trả cho Trần Văn Q 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu ghi, lắp sim số 0989920283; trả cho Lê Hoài N 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu hồng là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 điều 106 BLTTHS.

[7]. Về án phí: Bị cáo Trần Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 135; khoản 2 điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và danh mục án phí kèm theo

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9]. Liên quan trong vụ án, còn có:

Lê Hoài N, sinh ngày 12/7/2006 đã giúp sức cho Trần Văn Q bán trái phép chất ma túy 0,0842 gam Methamphetamine cho Võ Quốc H. Nhưng khi thực hiện hành vi trên thì Lê Hoài N chưa đủ 16 tuổi, hành vi giúp sức của Lê Hoài N thuộc tội phạm nghiêm trọng nên Lê Hoài N chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS. Ủy ban nhân dân xã KST, huyện C đã ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 05 tháng, kể từ ngày 07/3/2022 theo Quyết định số 64/QĐ-XPTT đối với Lê Hoài N là có căn cứ Võ Quốc H và Nguyễn Văn T cùng nhau góp tiền mua ma túy có khối lượng 0,0842 gam là Methamphetamine của Trần Văn Q với mục đích để sử dụng. Võ Quốc Hải và Nguyễn Văn Trường không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 điều 249 BLHS; khối lượng Methamphetamine dưới 0,1 gam nên hành vi chưa đến mức để xử lý trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Võ Quốc H và Nguyễn Văn T mỗi người 1.500.000 đồng là có căn cứ Anh Nguyễn Xuân C không biết Nguyễn Văn T sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 38N6-1178 của mình đi mua ma túy, nên không đủ căn cứ để xử lý Trong quá trình điều tra và tại phiên Tòa, Trần Văn Q khai nhận sáng ngày 07/12/2021 đi vào thành phố Hà Tĩnh mua ma tuý của một người đàn ông làm nghề chạy xe ôm nhưng không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ; ngày 08/12/2021, Trần Văn Q có bán 300.000 đồng chất ma túy cho một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên chưa có căn cứ để xử lý đối với những người này.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm e khoản 2, khoản 5 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điểm a, b khoản 1 điều 47 BLHS. Điểm a, b c khoản 2 điều 106; khoản 2 điều 135; khoản 2 điều 136, điều 331, điều 333 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và danh mục án phí kèm theo.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Trần Văn Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2021. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đối với bị cáo Trần Văn Q.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước:

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO màu đen;

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen;

- 800.000 đồng thu giữa của Trần Văn Q.

Tịch thu tiêu hủy:

- Khối lượng 1,9391 gam Methamphetamine được đóng trong 13 túi nilon - 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy; 02 chiếc bật lửa màu đỏ, đã qua sử dụng; một phong bì thư màu trắng, trên có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ;

- 10 túi ni lông màu trắng có viền màu đỏ.

- Các sim điện thoại số 0357766472 và số 0849915888 Tiếp tục tạm giữ số tiền 600.000 đồng đã thu giữ của Trần Văn Q để đảm bảo cho việc thi hành án.

(Đặc điểm cụ thể từng loại vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2022 giữa Công an huyện Can Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Can Lộc)

Về án phí: Bị cáo Trần Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm .

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về