Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/TLST- HS ngày 09/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 15/6/2021 đối với các bị cáo:

1. Đinh Xuân S (tên gọi khác: Đinh Xuân S), sinh ngày 14/3/1997 tại Quảng Trị; nơi ĐKNKTT: khu phố 3, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị; chỗ ở: khu phố 4, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị nghề nghiệp: không nghề; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Xuân N (đã chết) và bà Đoàn Thị M; vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: - Ngày 11/9/2013, UBND huyện Gio Linh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa người vào trường giáo dưỡng” trong thời hạn 24 tháng vì đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. S thi hành biện pháp này tại Trường Giáo dưỡng số 3- C10- Bộ Công an đóng tại TP Đà Nẵng, đến ngày 12/8/2015 thì chấp hành xong.

- Ngày 12/3/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Gio Linh xử phạt 14 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong ngày 22/11/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gio Linh từ ngày 12/01/2021 đến nay, có mặt.

2. Trần Nam T (tên gọi khác: không có), sinh ngày 11/6/1995 tại Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: khu phố 2, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: không nghề; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Nguyên C và bà Lê Thị Ch; vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gio Linh từ ngày 13/01/2021 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đoàn Thị M, sinh năm 1976; trú tại: khu phố 4, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

Người làm chứng:

1, Anh Ngô Viết L, sinh năm 1990; trú tại: khu phố 1, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

2, Anh Nguyễn Đức C , sinh năm 1991; trú tại: khu phố 4, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 08/01/2021, Đinh Xuân S nảy sinh ý định bán ma túy nên đã rủ Trần Nam T cùng góp tiền để mua ma túy về bán. T đồng ý nên đưa cho S 1.300.000 đồng rồi cùng nhau đi xe buýt đến Thành phố Đông Hà để mua ma túy. S và T đi đến ngã ba giao nhau giữa đường Hàm Nghi với đường Trần Cao Vân thuộc địa phận Phường 5, thành phố Đông Hà. Tại đây, S trực tiếp mua 40 viên ma túy của một người thanh niên không rõ tên, tuổi, địa chỉ với giá 2.400.0000đ. Sau khi mua, S cất giữ ma túy rồi cùng T đón xe ôm về nhà mẹ S ở Khu phố 4, thị trấn G. Khi về đến nhà, S cùng T sử dụng hết 03 viên ma túy, 37 viên còn lại được S và T bỏ vào các đoạn ống nhựa rồi chia nhau cất giữ, trong đó T giữ 15 viên, S giữ 22 viên. Trong các ngày 09, 10, 11, 12/01/2021, S và T đã cùng nhau sử dụng hết 12 viên ma túy trong số ma túy mà T cất giữ.

Vào khoảng 23 giờ ngày 12/01/2021, Ngô Viết L đi xe mô tô đến nhà mẹ S ở Khu phố 4, thị trấn G. Khi đến, L gặp T nên đã hỏi mua ma túy của T. Do lúc này không còn ma túy để bán nên T đã giới thiệu L vào gặp S . Tại đây, S đã bán cho L 03 viên ma túy với giá 250.000đ. Sau khi L rời đi thì T cũng ra về, còn S vẫn ở tại nhà của mẹ mình. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày, S mang theo ma túy đi bộ tìm quán mua đồ ăn khuya, khi đến khu vườn nhà ông Võ Hạnh P ở Khu phố 4, thị trấn G thì bị Công an huyện Gio Linh phát hiện, bắt quả tang thu giữ trên người 10 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh. Khám xét khẩn cấp nhà ở của mẹ S tại Khu phố 4, thị trấn Gio Linh , Cơ quan điều tra tiếp tục thu giữ thêm 05 viên nén màu hồng mà S đã cất giấu tại đây. Sau khi biết Đinh Xuân S bị bắt, vào sáng ngày 13/01/2021 Trần Nam T đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh để đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Quá trình làm việc, cả hai đã tự khai nhận về những lần mua bán ma túy trước đó, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào lúc 08 giờ 36 phút ngày 10/01/2021, Nguyễn Đức C gọi điện thoại cho S để hỏi mua ma túy. Trao đổi qua điện thoại, S đồng ý bán ma túy cho C và nhờ C mua giúp mình cái card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng.

Sau khi kết thúc cuộc gọi, S nói với T “C mới lấy ba” (ý của S là C vừa gọi điện cho S mua 03 viên ma túy) rồi đi bộ ra đường Lý Thường Kiệt (gần lối đi vào nhà mẹ S thuộc địa phận Khu phố 4, thị trấn Gio Linh) để đợi C đến. Khoảng 5 phút sau, C đến và đưa cho S số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) cùng với 01 cái card điện thoại mạng Viettel có mệnh giá 100.000đ, nhận tiền và card xong thì S đưa lại cho C một đoạn ống nhựa chứa 03 viên ma túy. Sau khi bán ma túy cho Chí, S vào nhà và nói với T “Được hai trăm mi nờ”. T hiểu ý là S đã bán ma túy cho C với giá 200.000đ và nói với S “Mi cứ cất nơi mi”.

Lần thứ hai: Vào lúc 10 giờ 44 phút ngày 12/01/2021, T đang ngồi chơi tại nhà mẹ S ở Khu phố 4, TT G thì Nguyễn Đức C gọi điện thoại cho S để hỏi mua ma túy.

Sau khi kết thúc cuộc gọi, S yêu cầu T đem ma túy đến gần quán bi da Minh Hiếu ở Khu phố 4, thị trấn G để bán cho C. Lúc này, T đang có sẵn ma túy trên người nên đã đi bộ đến địa điểm trên và trực tiếp bán cho C 03 viên ma túy với giá 250.000đ . Sau khi bán cho C, T đã kể lại với S rồi T cất số tiền bán được để mua thức ăn, nước uống chung cho cả hai người.

Tại bản kết luận giám định số 148/KLGĐ ngày 21/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: “10 viên nén màu hồng, hình trụ trong được niêm phong trong phong bì có ký hiệu MT có khối lượng 1,0048 gam là ma túy loại Methamphetamine; 05 viên nén màu hồng, hình trụ tròn được niêm phong trong phong bì có ký hiệu MT1 có khối lượng 0,4971 gam là ma túy loại Methamphetamine;

01 viên nén màu xanh, hình trụ tròn được niêm phong trong phong bì ký hiệu MT có khối lượng 0,1029g. Không tìm thấy chất ma túy trong viên nén màu xanh”. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT:323 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Cáo trạng số 17/CT-VKS-GL ngày 08/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh truy tố các bị cáo Đinh Xuân Sửu và Trần Nam T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh giữ nguyên Quyết định truy tố các bị cáo Đinh Xuân Sửu và Trần Nam T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt Đinh Xuân Sửu từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251Bộ luật hình sự; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Nam T từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy:

- 1,391 gam ma tuý loại Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói trả lại sau giám định.

- 02 miếng ni lông trong suốt; 02 đoạn ống nhựa hình trụ, màu xanh;

- 02 (hai) thẻ sim, trong đó SIM 1 có số thuê bao 0868884246 và SIM2 có số thuê bao 0377457094 (các thẻ sim được gắn trong điện thoại OPPO màu đen).

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 điện thoại di động OPPO màu đen đã qua sử dụng và 250.000 đồng của Đinh Xuân S Truy thu ở Đinh Xuân S , Trần Nam T mỗi bị cáo 225.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng: Trong giai đoạn điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Qua xét hỏi công khai tại phiên tòa cùng với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 08/01/2021, sau khi nảy sinh ý định mua ma tuý bán để kiếm lời, Đinh Xuân Sửu rủ Trần Nam T cùng góp tiền để mua ma túy về bán. T đồng ý góp số tiền 1.300.000 đồng theo S yêu cầu và cả hai cùng vào thành phố Đông Hà mua 40 viên ma túy với giá 2.400.0000 đồng. S và T sử dụng hết 03 viên ma túy, 37 viên còn lại được S và T bỏ vào các đoạn ống nhựa, T cất giữ 15 viên, S cất giữ 22 viên. Trong các ngày 09, 10, 11, 12/01/2021, S và T đã cùng nhau sử dụng hết 12 viên ma túy trong số ma túy mà T cất giữ. Các bị cáo đã cùng nhau bán 03 lần ma tuý, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Vào lúc 08 giờ 36 phút ngày 10/01/2021, bán cho Nguyễn Đức C 03 viên ma túy với giá 200.000 đồng.

- Lần thứ hai: Vào lúc 10 giờ 44 phút ngày 12/01/2021, bán cho Nguyễn Đức C 03 viên ma túy với giá 250.000đ.

- Lần thứ ba: Khoảng 23 giờ ngày 12/01/2021, bán cho Ngô Viết 03 viên ma túy với giá 250.000đ.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Các bị cáo Đinh Xuân Sửu và Trần Nam T nhận thức được hành vi mua bán chất ma tuý là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng với ý thức coi thường pháp luật, lười lao động nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Hiên nay, loại tội phạm về ma túy đang có chiều hướng gia tăng ở địa bàn huyện Gio Linh, gây lo lắng và bức xúc trong nhân dân. Nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, ngăn chặn tệ nạn ma túy xâm nhập vào đời sống cộng đồng, cần phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Vị trí, vai trò của các bị cáo:

Trong vụ án này, Đinh Xuân S có vai trò đầu vụ, rủ Trần Nam T cùng góp tiền mua ma tuý để bán kiếm lời, trực tiếp giao dịch mua 40 viên ma tuý, cất giữ ma tuý tại nhà mình đồng thời cũng là người thực hành tích cực nhất trong việc bán ma tuý cho người khác. Đối với Trần Nam T là đồng phạm, cùng góp tiền mua ma tuý đồng thời cũng là người thực hành tích cực tương đương với Đinh Xuân S trong việc bán ma tuý.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Cả 02 bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ:

- Đối với bị cáo Đinh Xuân S quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự thú về hành vi phạm tội của mình; gia đình thuộc diện hộ nghèo. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

- Đối với bị cáo Trần Nam T, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện đến cơ quan công an để đầu thú và tự thú về hành vi phạm tội của mình trước đó, bị cáo có bố là là người có công với nước được tặng thưởng huân chương kháng chiến. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Xét thấy các bị cáo Đinh Xuân S và bị cáo Trần Nam T có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng, nên cần áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo dưới mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử ban hành Quyết định tạm giam đối với các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 1,391 gam chất bột màu hồng là ma tuý loại Methamphetamine, đây là số ma túy còn lại sau giám định. Ma túy là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

- 02 miếng ni lông trong suốt, có kích thước lần lượt là 2,5 cm x 2 cm và 13 cm x 9 cm; 02 đoạn ống nhựa hình trụ, màu xanh, trong đó một ống có đường kính 0,7 cm, chiều dài 6,2 cm và một ống có đường kính 0,7 cm, chiều dài 2 cm là bao gói ma túy nên cần tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động OPPO màu đen, có số IMEI 1: 866056044204670 và số IMEI 2: 866056044204662, điện thoại đã qua sử dụng. Điện thoại gắn kèm 2 (hai) thẻ sim, trong đó SIM 1 có số thuê bao 0868884246 (sim này có số seri: 8984048000067002367) và SIM2 có số thuê bao 0377457094 (sim này có số seri: 8984048000033605032) do Đinh Xuân S giao nộp. Đây là công cụ phương tiện các bị cáo dùng trong việc liên lạc để mua bán trái phép chất ma tuý. Đối với điện thoại, còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước; đối với 02 thẻ sim, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền thu lợi bất chính 250.000 đồng của Đinh Xuân S có được từ việc bán 03 viên ma túy cho Ngô Viết L .

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh, có số IMEI 1 là 868613044947696 và số IMEI 2 là 868613044947688, trong đó có gắn kèm 01 thẻ sim có số thuê bao 0905465123 do Nguyễn Đức C giao nộp. Là tang vật vi phạm hành chính của Nguyễn Đức C nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

- Đối với số tiền 450.000 đồng thu lợi bất chính từ việc bán ma túy, Đinh Xuân S và Trần Nam T đã tiêu xài cá nhân hết, nên cần truy thu ở mỗi bị cáo 225.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

[8] Về các hành vi liên quan đến vụ án:

- Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Đinh Xuân S và Trần Nam T, quá trình điều tra không xác định được danh tính, lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đinh Xuân S và Trần Nam T. Cơ quan Điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có cơ sở.

[9] Do điều kiện các bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đinh Xuân S và Trần Nam T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Xuân S 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/01/2021.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Nam T 04 năm 06 tháng tù (bốn năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/01/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

a. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 túi niêm phong, bên trong đựng 1,391 gam chất bột màu hồng là ma tuý loại Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói trả lại sau giám định. Bên ngoài túi niêm phong có chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng hình dấu của phòng Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, ký hiệu PS3A077844.

- 02 miếng ni lông trong suốt, có kích thước lần lượt là 2,5 cm x 2 cm và 13 cm x 9 cm;

- 02 đoạn ống nhựa hình trụ, màu xanh, trong đó một ống có đường kính 0,7 cm, chiều dài 6,2 cm và một ống có đường kính 0,7 cm, chiều dài 2 cm.

- 02 (hai) thẻ sim, trong đó SIM 1 có số thuê bao 0868884246 và SIM2 có số thuê bao 0377457094.

b. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 điện thoại di động OPPO màu đen, có số IMEI 1: 866056044204670 và số IMEI 2: 866056044204662, điện thoại đã qua sử dụng.

Các vật chứng trên có đặc điểm như tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2020 giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Gio Linh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh, hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh.

c. Tịch thu số tiền 250.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước. Số tiền này hiện có tại tài khoản số 3949.0. 9042356.00000 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Gio Linh tại Kho bạc Nhà nước huyện Gio Linh.

d. Truy thu ở Đinh Xuân S , Trần Nam T mỗi bị cáo 225.000 (hai trăm hai mươi lăm nghìn) đồng sung công quỹ nhà nước.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, buộc Đinh Xuân S và Trần Nam T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về