Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 147/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 147/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/9/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh L, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 149/2023/TLST-HS ngày 27/8/2023, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2023/QĐXXST-HS ngày 14/9/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: CHÂU VĂN P; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17/6/1995, tại huyện T, tỉnh L; Nơi cư trú: bản E, xã M, huyện T, tỉnh L; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: trồng trọt; Trình độ học vấn: 5/12; Ch c vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể: không; Con ông Châu Văn B, sinh năm 1964 và bà Lường Thị H, sinh năm 1966; Gia đình bị cáo có 05 chị, em; bị cáo là con th tư; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 12/5/2023, tạm giam từ ngày 21/5/2023, tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay (có mặt).

Người làm chứng 1: Nguyễn Văn B, sinh ngày 05/6/1983; Địa chỉ: bản X, xã M, huyện T, tỉnh L.

Người làm chứng 2: Đỗ Anh T, sinh ngày 19/01/1993; Địa chỉ: bản M, xã M, huyện T, tỉnh L. (cả hai người làm chứng đều vắng mặt không rõ lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ ngày 11/5/2023, Châu Văn P một mình đi bộ từ nhà tại bản E, xã M đến bản H, xã M, huyện T tìm mua Heroine để sử dụng và bán. Tại bản H, P gặp và mua từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Sau đó, P cầm gói Heroine về nhà và lấy một ít ra sử dụng bằng hình th c hít. Số Heroine còn lại, P cất giấu tại giường ngủ của mình, không cho ai biết. Khoảng 13 giờ ngày 12/5/2023, Châu Văn P lấy gói Heroine ra chia thành 02 gói, đều gói bằng mảnh giấy màu trắng, mục đích: để sử dụng và bán. Khi P vừa chia Heroine xong thì có Nguyễn Văn B, sinh ngày 05/6/1983, trú tại bản X, xã M, huyện T và Đỗ Anh T, sinh ngày 19/01/1993, trú tại bản M, xã M, huyện T đến nhà P hỏi mua Heroine sử dụng. Tại nhà P, T và B góp nhau mỗi người 50.000 đồng, tổng được 100.000 đồng, việc B và T góp tiền với nhau thì P không biết. Sau khi góp tiền Nguyễn Văn B trực tiếp hỏi mua Heroine của P và đưa cho P số tiền 100.000 đồng. Châu Văn P đồng ý, nhận lấy số tiền 100.000 đồng từ B, rồi lấy 01 gói Heroine vừa chia ra đưa cho B. Mua được Heroine B và T cùng nhau đi khỏi nhà Châu Văn P tìm chỗ sử dụng.

Hồi 13 giờ 10 phút ngày 12/5/2023, tại bản X, xã M, huyện T, Nguyễn Văn B và Đỗ Anh T lấy gói Heroine mua được từ Châu Văn P ra sử dụng thì bị Tổ Công tác Công an xã M phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Thu giữ 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng.

Căn c lời khai của B và T, lực lượng Công an huyện T thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp đối với Châu Văn P hồi 14 giờ 20 phút ngày 12/5/2023, thu giữ số tiền 100.000 đồng và 01 gói Heroine được gói bằng mảnh giấy màu trắng tại giường ngủ của Châu Văn P.

Tại Kết luận giám định số 73 ngày 12/5/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện T và Kết luận giám định số 556/KL-KTHS ngày 16/5/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận “số chất bột màu trắng thu giữ của Châu Văn P có tổng khối lượng 0,02 gam, là ma túy, loại: Heroine (Heroin). Bản kết luận giám định số 557/KL-KTHS ngày 16/5/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: số tiền 100.000 đồng thu giữ của Châu Văn P gửi giám định là tiền thật.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 gói Heroine thu giữ của Châu Văn P có khối lượng 0,02 gam, đã gửi giám định toàn bộ, còn lại: 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong Bn đầu; 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Anh T, Nguyễn Văn B; số tiền 100.000 đồng thu giữ của Châu Văn P. Các vật chứng còn lại hiện đang được bảo quản theo quy định của pháp luật.

Cáo trạng số 122/CT-VKS ngày 27/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, truy tố bị cáo Châu Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251/Bộ luật hình sự.

Quá trình điều, tra truy tố, bị cáo Châu Văn P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng c , tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian và địa điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Châu Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về hình phạt, đề nghị áp dụng khoản 1 khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/Bộ luật hình sự, đề nghị tuyên phạt bị cáo Châu Văn P m c án từ 02 năm 04 tháng đến 02 năm 10 tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung và buộc bị cáo phải chịu án phí HSST.

Về vật chứng đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47/Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong vật chứng; 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Anh T, Nguyễn Văn B để tiêu hủy. Tịch thu 100.000 đồng do bán trái phép chất ma túy mà có của Châu Văn P để sung vào ngân sách Nhà nước.

Căn c vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện những chứng c , tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn c vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng ch c năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với vụ án theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42/Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội và cấu thành tội phạm: Khoảng 13 giờ ngày 12/5/2023, tại nhà ở của mình thuộc bản E, xã M, huyện T, Châu Văn P đã bán trái phép cho Nguyễn Văn B 01 gói Heroine lấy số tiền 100.000 đồng. Ngoài ra, Châu Văn P còn cất giấu 01 gói Heroine có khối lượng 0,02 gam, mục đích để sử dụng và bán. Hành vi bị cáo Châu Văn P thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251/Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo Châu Văn P là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận th c được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Ma tuý đang là nỗi nh c nhối trong đời sống xã hội, và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó mọi hành vi phạm tội liên quan tới ma tuý cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về mục đích phạm tội của bị cáo: Bị cáo Châu Văn P là đối tượng nghiện chất ma túy, việc mua trái phép chất ma túy ngoài việc sử dụng cho nhu cầu nghiện chất ma túy của bản thân, bị cáo còn bán lại cho các đối tượng nghiện chất ma túy khác để thu lợi bất chính.

[5]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Châu Văn P được sinh ra trong gia đình lao động, mặc dù là có tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu khó tu dưỡng rèn luyện, làm ăn chân chính. Để có tiền tiêu sài cá nhân và có ma túy phục vụ nhu cầu của mình, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Như vậy nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố hành vi phạm tội và đề xuất m c hình phạt đối với bị cáo là có căn c chấp nhận. Cần có một m c án tương x ng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về những hành vi phạm tội của mình. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo Châu Văn P không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52/Bộ luật hình sự.

[6]. Về vật chứng: Đối với 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ bì niêm phong vật chứng 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Đỗ Anh T, Nguyễn Văn B là những vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 100.000 đồng bị cáo có được do bán trái phép chất ma túy mà có, cần tịch thu để sung vào ngân sách Nhà nước

[7]. Một số vấn đề liên quan trong vụ án: Về nguồn gốc Heroine, bị cáo Châu Văn P khai mua từ một người không rõ lai lịch tại bản H, xã M, huyện T nên không có căn c để xác minh, điều tra, xử lý.

Đối với Đỗ Anh T, Nguyễn Văn B đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đỗ Anh T và Nguyễn Văn B là đúng quy định

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[9]. Về biện pháp ngăn chặn: Cần tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn c vào khoản 1 khoản 5 Điều 251; Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51/Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333/Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23/Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH quy định về m c thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Châu Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Châu Văn P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2023. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu 01 mảnh giấy màu trắng, 02 bơm kim tiêm đã qua sử dụng và 01 vỏ bì niêm phong vật chứng để tiêu hủy; Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) thu giữ của Châu Văn P.

Các vật chứng nêu trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/9/2023 giữa Cơ quan CSĐT - Công an huyện Tvà Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4. Về án phí: Bị cáo Châu Văn P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 147/2023/HS-ST

Số hiệu:147/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về