Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 138/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 138/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12xxxx/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 07 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 144/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 09 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn An N, sinh năm 1989; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn D 1, xã E, huyện K, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Nguyễn Văn T, sinh năm 1960; họ tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1961; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; họ tên vợ, Hoàng Thị Hải Hiên, sinh năm 1994; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 102/2009/HS-ST ngày 04/06/2009 của Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội, xử phạt Nguyễn An N 1xxxx tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xoá án tích; Bản án số 70/2010/HS-ST ngày 29/07/2010 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xử phạt Nguyễn An N 33 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 30/08/2011 chấp hành xong hình phạt tù, đã xoá án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 1xxxx/01/2021 đến ngày 24/01/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê N Anh, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn Trâu Qùy, huyện K, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

Anh Khúc Văn N, sinh năm 1978; nơi cư trú: Đội 18, xã G, huyện B, tỉnh B, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ xxxxxxxx phút ngày 1xxxx/01/2021, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an xã X, Công an huyện K tiến hành tuần tra đến khu vực tổ dân phố đường xxxx, X, K, Hà Nội phát hiện Nguyễn An N, Lê N Anh, sinh năm 1980; trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn Q, huyện K, Hà Nội và Khúc Văn N, sinh năm 1978; trú tại: Đội 18, xã G, huyện B, tỉnh B đang trao đổi mua bán trái phép ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

Thu giữ của Nguyễn An N:

- 01 túi ni lông màu trắng kích thước 2,xxxxx3,xxxx(cm) bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu xanh và 01 đoạn ống nhựa màu vàng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

- 01 hộp kim loại màu tím có chữ Eclipse bên trong gồm có:

+ 01 túi ni lông màu trắng kích thước 2,xxxx x 3,xxxx (cm) bên trong có 03 đoạn ống nhựa màu xanh đều hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

+ 01 túi ni lông màu trắng kích thước 2,xxxx x 3,xxxx (cm) bên trong có 03 đoạn ống nhựa màu tím và 02 đoạn ống nhựa màu xanh đều hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

+ 01 gói nhỏ được bọc ngoài bởi tờ tiền giấy mệnh giá xxxx000 đồng, bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu xanh, 01 đoạn ống nhựa màu hồng, 01 đoạn ống nhựa màu da cam, 01 đoạn ống nhựa màu vàng tất cả đều hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

- Số tiền 400.000 đồng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, có bàn phím bấm, bên trong lắp thẻ sim 1 số 0363131389, thẻ sim 2 số 0968216689, máy cũ đã qua sử dụng.

- 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu đen, có chữ Itel, máy cũ đã qua sử dụng.

- 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu bạc, BKS 29T2- xxxx1xxxxxxxx, đã qua sử dụng.

Thu giữ của Lê N Anh: Số tiền 100.000 đồng.

Thu giữ của Khúc Văn N: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bàn phím bấm, bên trong có lắp thẻ sim số 0384830069, máy cũ đã qua sử dụng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn An N theo địa chỉ nói trên, Cơ quan điều tra không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến vụ án.

Tại Kết luận giám định số 734/KLGĐ-PC09 ngày 21/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

Tang vật thu giữ bên trong 01 hộp kim loại màu tím gồm:

- Chất bột màu trắng bên trong 03 đoạn ống nhựa màu xanh hàn kín hai đầu (được để trong 01 túi ni lông) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,081 gam.

- Chất bột màu trắng bên trong 0xxxx đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu (03 đoạn màu tím, 02 đoạn màu xanh) để trong 01 túi ni lông) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,072 gam.

- Chất bột màu trắng bên trong 0xxxx đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu (02 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu hồng, 01 đoạn màu da cam, 01 đoạn màu vàng, được gói trong 01 tờ tiền trị giá xxxx000 VNĐ đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,084 gam.

- Chất bột màu trắng bên trong 03 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu (02 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu vàng, được để trong 01 túi ni lông) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,0xxxx0 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn An N, Lê N Anh và Khúc Văn N khai nhận: Bản thân N là người nghiện ma túy từ năm 2017 đến nay. Khoảng 12 giờ ngày 1xxxx/01/2021, khi N đang ở khu vực tổ dân phố Y, thị trấn Q, K, Hà Nội thì nhận được cuộc gọi của Khúc Văn N từ số điện thoại 0384830069 gọi đến số điện thoại của N là 0363131389 để hỏi mua 300.000 đồng ma túy. N đồng ý, sau đó N điều khiển xe máy Yamaha Jupiter biển kiểm soát 29T2xxxx1xxxxxxxx đến khu vực tổ dân phố đường xxxx, thuộc địa phận xã X, K để bán ma tuý. Khi đến nơi, N thấy N và 01 người đàn ông đứng ven đường (sau này N biết người đó tên là Lê N Anh). N lấy 01 túi nilông màu trắng bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu xanh và 01 đoạn ống nhựa màu vàng đều hàn kín hai đầu bên trong chứa ma túy Heroin ở túi đeo chéo trên người N cầm vào lòng bàn tay trái. N điều khiển xe máy đến chỗ N và Lê N Anh đang đứng. Đến nơi, N đưa cho N 200.000 đồng, N cầm tiền và chuẩn bị đưa ma túy cho N thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ. Do sợ hãi nên N đã thả số ma túy và 200.000 đồng ở lòng bàn tay trái xuống đất, sau đó N đã tự nguyện nhặt số ma túy và số tiền 200.000 đồng lên giao nộp cho Cơ quan Công an. N khai nhận số ma túy trên là Heroine của N dùng để bán cho N với giá 200.000 đồng. Sau đó, N tiếp tục lấy 01 hộp kim loại màu tím có chữ Eclipse ở xe máy mà N điều khiển giao nộp cho Cơ quan Công an. Bên trong hộp kim loại có một túi nilông màu trắng bên trong có 03 đoạn ống nhựa màu xanh đều được hàn kín hai đầu bên trong đều chứa chất bột màu trắng, 01 túi nilông màu trắng bên trong có 03 đoạn ống nhựa màu tím và 02 đoạn ống nhựa màu xanh đều hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 gói nhỏ được bọc ngoài bằng tờ tiền mệnh giá xxxx000 đồng bên trong có 02 đoạn ống hút nhựa màu xanh, 01 đoạn màu hồng, 01 đoạn màu cam và 01 đoạn ống nhựa màu vàng, tất cả đều được hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng. N khai nhận các đoạn ống nhựa trên bên trong đều chứa chất bột màu trắng là ma túy heroine của N dùng để bán kiếm lời khi có người hỏi mua. Tổ công tác kiểm tra người N không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy; kiểm tra Lê N Anh thu giữ số tiền 100.000 đồng. N Anh khai nhận khai nhận đó là tiền N Anh dùng để mua ma tuý.

Ngoài hành vi trên, vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/01/2021, Nguyễn An N đã bán cho N 02 đoạn ống nhựa có chứa ma túy với giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tại ven đường tổ dân phố đường xxxx, X, K, Hà Nội. Số tiền này, N đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra. Đối với số ma túy mua được ngày 14/01/2021, N đã làm rơi khi đi tìm chỗ sử dụng nên không thu giữ được.

Lời khai của Nguyễn An N phù hợp với lời khai của Khúc Văn N và Lê N Anh.

Về nguồn gốc số ma túy do cơ quan Công an đã thu giữ của N ngày 1xxxx/01/2021, N khai nhận trong 02 ngày 12 và 13/01/2021, N sử dụng điện thoại số 0363131389 liên lạc mua ma tuý của một người đàn ông tên Tuấn, có số điện thoại 0344xxxx68226. Sau đó N đi xe ôm đến khu vực chùa Kiêu Kỵ thuộc xã Kiêu Kỵ, K, mua của Tuấn tổng số 18 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong đều chứa ma túy Heroine với giá 900.000 đồng. Mua xong, N cất ma túy vào túi đeo chéo trên người. Trên đường đi, N đã cho các đoạn ống nhựa chứa ma túy Heroine vào các túi ni lông màu trắng để bán kiếm lời.

Ngày 27/04/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã gửi công văn số 602 đề nghị Tổng công ty viễn thông Quân đội Viettel cung cấp thông tin thuê bao 0344xxxx68226 là số thuê bao của đối tượng có tên "Tuấn" đã bán ma túy cho N.

Ngày 28/6/2021, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội có công văn số 1870/CNVTQĐ-TTKT phúc đáp: Chủ thuê bao số 0344xxxx68226 có họ và tên: Nguyễn Quốc Tuấn, sinh ngày 26/8/1969; địa chỉ: 27B, ngách 3, ngõ 191, Lạc Long Quân, tổ 7, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội.

Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã triệu tập ghi lời khai của Nguyễn Quốc Tuấn, sinh ngày 26/8/1969; địa chỉ: Số 4xxxx, ngách 3, ngõ 89, Lạc Long Quân, tổ 7, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội (trước đây là 27B, ngách 3, ngõ 191, Lạc Long Quân, tổ 7, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội). Tại Cơ quan Điều tra Tuấn khai: Bản thân Tuấn không đăng ký hay sử dụng thuê bao số 0344xxxx68226. Tuấn không quen biết với Nguyễn An N và không liên quan đến việc mua bán ma túy của N. Tuấn bị mất căn cước công dân từ khoảng tháng 12/2020. Trước thời gian Tuấn bị mất căn cước công dân thì Tuấn không cho ai mượn hoặc nhờ ai sử dụng căn cước công dân của mình. Do vậy, Cơ quan Điều tra không có căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Quốc Tuấn.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn An N, do không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên cơ quan CSĐT – Công an huyện K không có căn cứ để xử lý.

Đối với Lê N Anh là người đi cùng Khúc Văn N đến mua ma túy, quá trình điều tra đã làm rõ: N và N Anh không quen biết nhau. Ngày 1xxxx/01/2021, N chỉ trao đổi mua bán ma túy với Khúc Văn N. Việc N Anh góp tiền và đi cùng N đến mua ma túy, N không biết. Do vậy, không có căn cứ xác định ngày 1xxxx/01/2021, Nguyễn An N đã bán ma túy cho Lê N Anh.

Đối với Khúc Văn N có hành vi mua ma túy của N để sử dụng vào ngày 14 và 1xxxx/01/2021. Số ma túy mua được ngày 14/01/2021 N đã làm rơi khi đi tìm chỗ sử dụng còn ngày 1xxxx/01/2021, N chưa kịp nhận ma túy thì bị kiểm tra bắt giữ. Qua xét nghiệm, Khúc Văn N có kết quả âm tính với ma túy. Do vậy cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với N.

Đối với Lê N Anh có hành vi đi cùng N để mua ma túy của Nguyễn An N ngày 1xxxx/01/2021, qua xét nghiệm nước tiểu đối với Lê N Anh cho kết quả âm tính với ma túy. Do vậy cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với N Anh.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu bạc, BKS 29T2- xxxx1xxxxxxxx, qua điều tra chiếc xe máy trên do chị Nguyễn N Thủy, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ 41, Yên Hòa, Cầu Giấy mua mới và đăng ký năm 2004. Sau đó, chị Thủy bán chiếc xe máy trên cho anh Lã Văn Quang, sinh năm 1988; HKTT: TDP Y, Q, K, Hà Nội. Việc mua bán đã lâu và không viết giấy tờ mua bán nên giữa chị Thủy và anh Quang không nhớ chính xác ngày bán. Qua tra cứu, chiếc xe máy trên không nằm trong cơ sở dữ liệu máy vật chứng. Ngày 1xxxx/01/2021, khi anh Quang cho Nguyễn An N mượn xe, anh Quang không biết N sử dụng vào mục đích mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy, ngày 18/4/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã trao trả chiếc xe máy trên cho anh Lã Văn Quang.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, có bàn phím bấm, bên trong lắp thẻ sim 1 số 0363131389, thẻ sim 2 số 0968216689, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 400.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn An N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bàn phím bấm, bên trong có lắp thẻ sim số 0384830069, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Khúc Văn N; số tiền 100.000 đồng thu giữ của Lê N Anh, quá trình điều tra xác định đều liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu đen, có chữ Itel, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Nguyễn An N, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 128/CT-VKSGL ngày 28 tháng 07 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Nguyễn An N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 2xxxx1 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 2xxxx1; điểm s khoản 1 Điều xxxx1 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn An N từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 1xxxx/01/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp N sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng; số tiền 40xxxx.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 100.000 đồng thu giữ của Nguyễn An N, Khúc Văn N và Lê N Anh.

Hoàn trả bị cáo 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu đen, có chữ Itel, máy cũ đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Cơ quan CSĐT – Công an huyện K đã trao trả chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu bạc, BKS 29T2-xxxx1xxxxxxxx cho anh Lã Văn Quang là phù hợp quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Khúc Văn N và anh Lê N Anh vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh N và anh N Anh không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh N và anh N Anh.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Trong các ngày 14 và 1xxxx/01/2021, tại khu vực tổ dân phố đường xxxx, X, K, Hà Nội, bị cáo Nguyễn An N đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Khúc Văn N với mục đích để kiếm lời, cụ thể: Lần 1: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/01/2021, N đã bán cho N 02 đoạn ống nhựa có chứa ma túy với giá 200.000 đồng; lần 2: Vào khoảng 12 giờ xxxxxxxx phút ngày 1xxxx/01/2021, N đang bán 02 đoạn ống nhựa màu xanh và 01 đoạn ống nhựa màu vàng bên trong chứa ma túy Heroin với giá 200.000 đồng cho Khúc Văn N và cất giữ một số ma túy Heroin để bán kiếm lời khi có người hỏi mua, có tổng khối lượng là 0,287 gam thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 2xxxx1 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 2xxxx1 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội.

Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được đầy đủ về tác hại của ma tuý nhưng vẫn tham gia mua bán trái phép nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy. Tại Bản án số 102/2009/HS-ST ngày 04/06/2009 của Toà án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội, xử phạt Nguyễn An N 1xxxx tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, đã xoá án tích. Tại Bản án số 70/2010/HS-ST ngày 29/07/2010 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xử phạt Nguyễn An N 33 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 30/08/2011 chấp hành xong hình phạt tù, đã xoá án tích. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều xxxx1 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4.xxxx] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản xxxx Điều 2xxxx1 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[xxxx] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 201xxxx, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng; số tiền 40xxxx.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 100.000 đồng thu giữ của Nguyễn An N, Khúc Văn N và Lê N Anh là phương tiện, tiền bạc liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp N sách nhà nước.

Hoàn trả bị cáo 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu đen, có chữ Itel, máy cũ đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho N, do không xác định được nhân thân, cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Lê N Anh là người đi cùng Khúc Văn N đến mua ma túy, quá trình điều tra đã làm rõ: N và N Anh không quen biết nhau. Ngày 1xxxx/01/2021, N chỉ trao đổi mua bán ma túy với Khúc Văn N. Việc N Anh góp tiền và đi cùng N đến mua ma túy, N không biết. Do vậy, không có căn cứ xác định ngày 1xxxx/01/2021, Nguyễn An N đã bán ma túy cho Lê N Anh.

Đối với Khúc Văn N và Lê N Anh do chưa mua được ma tuý của N, qua xét nghiệm đều có kết quả âm tính với ma túy, Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với N và N Anh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn An N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 2xxxx1; điểm s khoản 1 Điều xxxx1 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 201xxxx, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn An N 07 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 1xxxx/01/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine, có khối lượng còn lại là 0,041 gam (sau khi đã trích mẫu để giám định 0,009 gam) thu giữ của bị cáo Nguyễn An N, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn An N, cán bộ niêm phong và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định;

Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine, có khối lượng còn lại là 0,186 gam (sau khi đã trích mẫu để giám định 0,0xxxx1 gam) thu giữ của bị cáo Nguyễn An N, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn An N, cán bộ niêm phong và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.

3.2. Tịch thu, nộp N sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bàn phím bấm, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn An N;

3.3. Tịch thu, nộp N sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, bàn phím bấm, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Khúc Văn N.

3.4 Hoàn trả Nguyễn An N 01 điện thoại di động, màn hình cảm ứng, màu đen, có ghi chữ Itel, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn An N.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 29/07/2021).

3.4. Tịch thu, nộp N sách nhà nước số tiền 40xxxx.000 đồng thu giữ của Nguyễn An N.

3.xxxx. Tịch thu, nộp N sách nhà nước số tiền 100.000 đồng thu giữ của Lê N Anh.

(Số tiền xxxx0xxxx.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2020/00xxxx48xxxx1 ngày 29/07/2021).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Nguyễn An N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

xxxx. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 1xxxx ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Khúc Văn N và anh Lê N Anh có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 1xxxx ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 138/2021/HS-ST

Số hiệu:138/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về