Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 133/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 133/2021/HSST NGÀY 24/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/7/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 131/2021/HSST ngày 29/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2021/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn C, sinh năm 2001 tại Hà Nội. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Đ, xã X, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn C1, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1967; Vợ con chưa có. Tiền án, tiền sự: 01 tiền án: Ngày 29/8/2019, TAND thành phố Hà Nội xử 06 tháng tù về tội “cưỡng đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (bản án số 647/2019/HS-PT) (đã được xóa án tích); Bị can bị bắt, tạm giữ từ ngày 05/3/2021 đến ngày 11/3/2021 bị áp dụng biện pháp tạm giam đến nay, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. Số giam: 1828A2/2, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Văn T, sinh năm 1991(vắng mặt) Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 00 phút ngày 05/03/2021, Tổ công tác Công an xã Thụy Lâm huyện Đông Anh làm nhiệm vụ tại Đình Trung, Xuân Nộn, Đông Anh, Hà Nội phát hiện Vũ Văn C, Trần Văn T (SN: 1993, HKTT: Thôn C, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội) và Hoàng Xuân G (SN: 1992, HKTT: Thôn L, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội) có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Tổ công tác phát hiện trong lòng bàn tay trái của C có 01 túi nilông màu trắng, kích thước (2x1,5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Tổ công tác tiến hành lập biên bàn và đưa các đối tượng về trụ sở để tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngoài ra còn tạm giữ:

- Của Vũ Văn C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng, lắp sim số thuê bao 0971.440.091 và 650.000 đồng.

- Của Trần Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, lắp sim số thuê bao 0334.725.033 Tại bản kết luận giám định số 2006/KLGĐ-PC09 ngày 14/3/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon có khối lượng 0,104 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo thừa nhận: Khoảng 10 giờ ngày 05/03/2021 T gọi điện và nhắn tin cho bị cáo đặt vấn đề mua 300.000 đồng ma túy “đá” và 200.000 đồng ma túy “ngựa bị cáo bảo chỉ còn ma túy “đá” nên T đồng ý và hẹn tại cổng nhà bị cáo. Đến khoảng 13 giờ 50 phút cùng ngày, bị cáo cầm theo 01 túi ma túy và đi ra cổng gặp T. Khi ra thấy G đi cùng, T đưa cho bị cáo 300.000 đồng, bị cáo cầm tiền và chuẩn bị đưa ma túy cho T thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, bắt giữ đưa về Công an giải quyết.

Ngoài ra bị cáo còn bán 03 lần bán ma túy cho T trước đó cụ thể:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/03/2021, bị cáo bán cho T 01 túi ma túy “đá” với giá 200.000đồng tại đầu ngõ vào nhà bị cáo.

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 03/03/2021, bị cáo bán cho T 01 túi ma túy “đá” với giá 300.000 đồng tại đầu ngõ vào nhà bị cáo.

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 04/03/2021, C bán cho T 01 túi ma túy “đá” với giá 300.000 đồng tại đầu ngõ vào nhà bị cáo.

Tại Cơ quan điều tra Trần Văn T và Hoàng Xuân G khai nhận phù hợp với lời khai của C, phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được.

Toàn bộ số ma túy bán cho T bị cáo mua của một người đàn ông không biết họ tên và địa chỉ ở Từ Sơn, Bắc Ninh.

Tại bản Cáo trạng số 129/CT-VKS-ĐA ngày 28/6/2021 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu, đúng là ngày 05/3/2021 bị cáo bán ma túy đá cho T với giá 300.000đ thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 điện thoại, số ma túy đá bán cho T và 650.000đ trong đó 300.000đ là tiền bán ma túy cho T còn 350.000đ là tiền của bị cáo nay đề nghị cho xin lại. Ngoài ra ngày 03/3/2021 bị cáo bán 2 lần ma túy đá cho T với giá 500.000đ và ngày 04/3/2021 một lần với giá 300.000đ, số tiền này bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết. Nay bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Vũ Văn C với mức án từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47, khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung công 02 điện thoại và 650.000đ. Tịch thu tiêu hủy 0,093 gam ma túy loại Methamphetamine.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Điều tra viên Công an huyện Đông Anh đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo, các đương sự đồng ý và không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ. Do đó có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 14 giờ ngày 05/03/2021 tại địa phận thôn Đ, xã X, huyện Đ, thành phố Hà Nội, Vũ Văn C đã có hành vi bán trái phép 01 túi ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,104 gam với giá 300.000 đồng cho Trần Văn T. Hành vi ấy của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Ngoài ra bị cáo còn bán 03 lần bán ma túy cho T với giá 800.000đ vào các ngày 03/03/2021 bán hai lần 500.000đ và ngày 04/03/2021 bán một lần 300.000đ đều diễn ra tại đầu ngõ vào nhà C thuộc địa phận thôn Đình Trung, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS, bằng bản cáo trạng số 129/CT-VKS-ĐA ngày 28/6/2021 là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt bổ sung:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh trật tự công cộng, còn là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó việc đưa bị cáo ra truy tố, xét xử trước pháp luật là cần thiết nhằm răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Bộ luật hình sự quy định.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này tuy bị cáo thành khẩn khai báo cả những lần chưa bị phát hiện và phạm tội do tuổi đời còn quá trẻ, nhưng với tội bị cáo phạm phải là loại tội rất nghiêm trọng, bị cáo lại có một Bản án phạm tội ở độ tuổi vị thành niên nên ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 06 tháng tù về tội “cưỡng đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, tính đến nay thì đương nhiên được xóa án tích. Từ đó Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung nhằm hạn chế các loại tội phạm khác trên địa bàn huyện Đông Anh, cũng đồng thời tạo một khoảng thời gian để bị cáo được cai nghiện ma túy trong môi trường pháp luật.

Bị cáo tuổi đời còn trẻ, sống phụ thuộc, không có tài sản riêng, nghề nghiệp không ổn định nên không phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

Đối với Trần Văn T và Hoàng Xuân G, Cơ quan điều tra chuyển phần tài liệu của T và G cho Công an xã Thụy Lâm và Công an xã Việt Hùng lập hồ sơ quản lý là phù hợp.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho C không biết họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ, nên không có cơ sở giải quyết trong vụ án này.

Đối với số tiền 800.000đ mà bị cáo thu được từ việc bán ma túy cho T vào các ngày 03,04/3/2021 đã chi tiêu cá nhân hết. Xét đây là số tiền do thực hiện hành vi phạm tội mà có, chưa nộp lại nên cần truy thu sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 điện thoại di động tạm giữ của C và 01 điện thoại di động tạm giữ của T, đã dùng vào việc phạm tội nên cho tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 650.000đ thu của bị cáo C, trong đó có 300.000đ là tiền bán ma túy cho T nên cho tịch thu sung vào ngân sách nhà nước, còn 350.000đ là tiền riêng của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo xin lại, xét đây là tiền của bị cáo không dùng váo việc phạm tội nên trả lại bị cáo là phù hợp, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

Đối với 0,093 gam ma túy loại Methamphetamine (đã trích mẫu 0,011gam, khối lượng gốc là 0,104 gam) xét không có giá trị sử dụng nên cho tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Vũ Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án:

Xử phạt: Vũ Văn C 07 năm 03 tháng ( Bẩy năm ba tháng) tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2021.

Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Vũ Văn C, Cán bộ niêm phong và Giám định viên bên trong có 0,093 gam Methamphetamine (đã trích mẫu 0,011gam, khối lượng gốc là 0,104 gam).

- Tịch thu phát mại hai chiếc điện thoại để sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, lắp sim số 0971440091, số Imei: 354385062359549 thu giữ của Vũ Văn C. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106 màu đỏ đen, lắp sim số 0334725033, số Imei: 357141065430663 thu giữ của Trần Văn T.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) thu giữ của Vũ Văn C.

- Trả lại Vũ Văn C 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh ngày 28/6/2021).

Truy thu của Vũ Văn C 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) sung vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo Vũ Văn C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền và nghĩa vụ trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 133/2021/HSST

Số hiệu:133/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về