Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 12/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 23/02/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2023/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Thị Tố Q, sinh năm 1986, nơi sinh tại thành phố C, tỉnh A; nơi thường trú: ấp V1, xã V, thành phố C, tỉnh A; nơi ở hiện nay: T22, khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh A; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Đạo phật, con ông Phạm Hồng S, sinh năm 1958 và bà Bùi Thị Th, sinh năm 1962; anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là người thứ hai; chồng Lý Hoàng Ph, sinh năm 1983; con có 03 đứa, đứa lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2022 đến nay đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tịnh Biên, bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lương Ngọc H (Hải L, Hải A), sinh năm 1984, nơi thường trú: Số 52/4 N, khóm B, phường M, thành phố L, tỉnh A; nơi ở hiện nay: T6, khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh A, vắng mặt;

2. Ông Lý Hoàng Ph, sinh năm 1983, nơi thường trú: khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh A; nơi ở hiện nay: Tổ 22, khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh A, vắng mặt;

3. Ông Trần Văn Th, sinh năm 1981, nơi cư trú: T3, ấp P, xã A, huyện T, tỉnh A, vắng mặt;

4. Ông Trần Giang E, sinh năm 1976, nơi cư trú: Số 887/9 T, phường M, thành phố L, tỉnh A, vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Trần Văn G, sinh năm 1957, nơi cư trú: Tổ 11, ấp N, xã T, huyện T, tỉnh A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 20/5/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy - Công an huyện Tịnh Biên phối hợp cùng với Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh A và Công an xã T tiến hành tuần tra phòng chống ma túy trên địa bàn xã T. Khi đến khu vực t11, ấp N, xã T, huyện T phát hiện Phạm Thị Tố Q điều khiển xe mô tô biển số 67B2-X có biểu hiện nghi vấn, nên Lực lượng ra tín hiệu dừng xe kiểm tra, thì Q ném bỏ 01 bọc nilon trong suốt xuống đường cách 1,5 mét. Qua kiểm tra, bên trong bọc nilon mà Q ném xuống đường bên trong có chứa 01 bọc nilon trong suốt được hàn kín hai đầu, có tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 02 bọc nilon trong suốt được hàn kín hai đầu, có chứa bột màu trắng nghi là ma túy. Nên, lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q và thu giữ tang vật.

Qua trình điều tra xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 20/5/2022, Q đang ở nhà trọ (thuộc t22, khóm X, thị trấn T, huyện T), có một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) gọi điện thoại cho Q hỏi mua ma túy đá và heroine với số tiền 4.500.000 đồng, rồi hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại ấp N, xã T, huyện T. Sau đó, Q gọi điện thoại cho người tên Q1 (không rõ họ, ở khu vực ấp B, xã V, thành phố C) hỏi mua ma túy với số tiền 3.600.000 đồng và thỏa thuận khi giao ma túy xong sẽ trả tiền sau. Thỏa thuận xong, Q điều khiển xe 67B2-X chạy đến ấp B, xã V, thành phố C thì được Q1 chỉ chỗ lấy ma túy, rồi Q cầm bọc ma túy bằng tay trái và điều khiển xe đến tổ 11, ấp N, xã T, huyện T để giao ma túy, thì bị Lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung vụ án.

Ngoài ra, Q còn khai nhận trước đó đã bán ma túy 2 lần, cụ thể như sau: Lần thứ nhất cách ngày bị bắt khoảng một tuần Q đã bán ma túy đá cho Lương Ngọc H với số tiền 350.000 đồng, thu lời được 50.000 đồng. Lần thứ hai cách lần thứ nhất 02 ngày, Q bán ma túy đá cho 01 người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) với số tiền 700.000 đồng, thu lời được 100.000 đồng.

Vật chứng thu giữ (theo biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, gồm:

- 01 hộp giấy được niêm phong (Vụ số: 70/KLGT-PC09(MT) ngày 24/5/2022) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T, tỉnh A và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Trung S. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định (theo Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 27/5/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A), khối lượng: Mẫu M1: 4,8922g, Mẫu M2: 0,6662g.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, trong điện thoại có gắn 02 thẻ SIM.

- 01 xe mô tô biển số 67B2-X, nhãn hiệu HONDA, số loại: FUTURE FI.

- Tiền Việt Nam là 900.000 đồng.

Bản kết luận giám định số: 70/KL-KTHS(MT-GT) ngày 24/05/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, kết luận:

- Mẫu M1 gửi đến giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng 4,9449g (bốn phẩy chín bốn bốn chín gam).

- Mẫu M2 gửi đến giám định là ma túy, loại: Heroine, có khối lượng 0,6973g (không phẩy sáu chín bảy ba gam).

Bản kết luận giám định số 172/KL-KTHS (KTSĐT-GT) ngày 23/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, kết luận:

- Tìm thấy dữ liệu lưu trữ trong: 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO có số IMEI 1: 863206057226911 và số IMEI 2: 863206057226903 (ký hiệu A) do Cơ quan điều tra - Công an huyện Tịnh Biên gửi giám định, chi tiết thể hiện trong Phụ lục và đĩa DVD dữ liệu trích xuất kèm theo.

- Kèm theo kết luận giám định: 01 Phụ lục gồm 34 trang A4 và 01 đĩa DVD có tổng dung lượng dữ liệu 2,29 GB.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSTB.HS ngày 12 tháng 01 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên đã truy tố bị cáo Phạm Thị Tố Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt Bộ luật hình sự).

Tại Cơ quan điều tra,

- Bị cáo đều khai nhận hành vi như đã nêu.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T khẳng định tình tiết liên quan về tài sản là xe mô tô, biển kiểm soát 67B2-X, phù hợp với lời khai của bị cáo.

- Người chứng kiến đều có lời khai phù hợp về việc chứng kiến bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo.

Tại phiên tòa,

- Bị cáo Phạm Thị Tố Q khai nhận do muốn có thu nhập nên ngày 20/5/2022 đang trên đường đem ma túy bán thì bị lực lượng kiểm soát phát hiện và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: không có ý kiến tranh luận.

- Kiểm sát viên, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng, bổ sung đính chính đối với nhân thân của bị cáo tại trang 4 của Bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS Đề nghị xử phạt đối với bị cáo:

Về hình phạt chính + Phạm Thị Tố Q từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù. Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo, do có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Căn cứ Điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tịch thu tiêu hủy: Vật chứng là ma túy còn lại sau khi đã giám định, gồm:

+ 01 (Một) hộp giấy được niêm phong (Vụ số: 70/KLGT-PC09(MT) ngày 24/5/2022) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Trung S. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định (theo Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 27/5/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A), khối lượng: Mẫu M1: 4,8922g (Bốn phẩy tám chín hai hai gam), Mẫu M2: 0,6662g (Không phẩy sáu sáu sáu hai gam).

+ 01 (Một) bọc nilon trong suốt (đã qua sử dụng).

* Tịch thu sung quỹ:

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, model: Vivo Y72 5G, có số IMEI 1: 863206057226911 và số IMEI 2: 863206057226903, trong điện thoại có gắn 2 thẻ SIM. Được niêm phong trong phong vì màu trắng, bên ngoài có ghi “Vụ 172/KL-KTHS(KTSĐT-GT), ngày 23 tháng 7 năm 2022 (Điện thoại gửi giám định)”, có chữ ký, chữ viết mang tên của bên giao, bên nhận và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 24/8/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A).

* Trả lại tài sản:

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Thị Tố Q 900.000 đồng (chín trăm ngàn) tiền Việt Nam.

+ Trả lại cho ông Trần Văn T: 01 (một) xe mô tô biển số 67B2- X, nhãn hiệu HONDA, số loại: FUTURE FI, màu sơn: Xanh xám, số máy: JC76E0069146; số khung: 7605GZ022304 (đã qua sử dụng).

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án tài liệu liên quan:

+ 01 (một) bì thư màu trắng, trên bì thư có ghi vụ: 172/KL-KTHS(KTSĐT- GT) ngày 23 tháng 07 năm 2022 (Đĩa DVD kèm theo KLĐT). Được niêm phong có chữ ký của Lê Phước Ng và Giáp Thanh T.

Vấn đề khác:

+ Bị cáo Phạm Thị Tố Q khai nhận đã bán ma túy 02 lần: 01 lần bán cho Lương Ngọc H và 01 lần bán cho một người đàn ông (không rõ họ tên địa chỉ), ngoài lời khai của bị cáo Q không còn chứng cứ khác để chứng minh, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q về hành vi tội phạm 02 lần trở lên là có căn cứ.

+ Đối với Lương Ngọc H có hành vi mua ma túy để sử dụng là vi phạm, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên chuyển xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

+ Lý Hoàng Ph không biết việc bị cáo Q mua bán ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên không truy cứu trách nhiệm đối với Phương là có căn cứ.

+ Người đàn ông tên Q1 bán ma túy cho bị cáo Q do chưa xác định được họ, địa chỉ nên chưa làm việc được. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

- Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tịnh Biên, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng và hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về sự vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, trong quá trình điều tra đã có lời khai và sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Thị Tố Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, cũng phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai nhận tại Cơ quan điều tra. Đồng thời còn phù hợp với vật chứng vụ án được thu giữ.

Đánh giá tính chất, mức độ hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy. Ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người sử dụng, là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự khác, tạo nên sự bất ổn cho an ninh trật tự xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm nhưng vì lợi nhuận muốn có tiền, đã cố ý mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác, đang trên đường vận chuyển thì bị phát hiện, qua kết luận giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng 4,9449g (bốn phẩy chín bốn bốn chín gam) và ma túy, loại: Heroine, có khối lượng 0,6973g (không phẩy sáu chín bảy ba gam), mà 02 loại ma túy có tổng khối lượng là 5,6422g (năm phẩy sáu bốn hai hai gam).

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Thị Tố Q có đầy đủ dấu hiệu của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay, cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đều thành khẩn khai báo nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, cũng như nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần có mức án nghiêm khắc, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình, cũng để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Do đó, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng:

* Tịch thu tiêu hủy: Vật chứng là ma túy còn lại sau khi đã giám định, gồm:

+ 01 (Một) hộp giấy được niêm phong (Vụ số: 70/KLGT-PC09(MT) ngày 24/5/2022) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Trung S. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định (theo Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 27/5/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A), khối lượng: Mẫu M1: 4,8922g (Bốn phẩy tám chín hai hai gam), Mẫu M2: 0,6662g (Không phẩy sáu sáu sáu hai gam).

+ 01 (Một) bọc nilon trong suốt (đã qua sử dụng).

* Tịch thu sung quỹ:

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, model: Vivo Y72 5G, có số IMEI 1: 863206057226911 và số IMEI 2: 863206057226903, trong điện thoại có gắn 2 thẻ SIM. Được niêm phong trong phong vì màu trắng, bên ngoài có ghi “Vụ 172/KL-KTHS(KTSĐT-GT), ngày 23 tháng 7 năm 2022 (Điện thoại gửi giám định)”, có chữ ký, chữ viết mang tên của bên giao, bên nhận và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 24/8/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A).

* Trả lại tài sản: Do không liên quan đến việc phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Thị Tố Q 900.000 đồng (chín trăm ngàn) tiền Việt Nam.

+ Trả lại cho ông Trần Văn T: 01 (một) xe mô tô biển số 67B2- X, nhãn hiệu HONDA, số loại: FUTURE FI, màu sơn: Xanh xám, số máy: JC76E0069146; số khung: 7605GZ022304 (đã qua sử dụng).

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án tài liệu liên quan:

+ 01 (một) bì thư màu trắng, trên bì thư có ghi vụ: 172/KL-KTHS(KTSĐT- GT) ngày 23 tháng 07 năm 2022 (Đĩa DVD kèm theo KLĐT). Được niêm phong có chữ ký của Lê Phước Ng và Giáp Thanh T.

[5] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo, do bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

[6] Vấn đề khác:

+ Bị cáo Phạm Thị Tố Q khai nhận đã bán ma túy 02 lần: 01 lần bán cho Lương Ngọc H và 01 lần bán cho một người đàn ông (không rõ họ tên địa chỉ), ngoài lời khai của bị cáo Q không còn chứng cứ khác để chứng minh, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q về hành vi tội phạm 02 lần trở lên là có căn cứ.

+ Đối với Lương Ngọc H có hành vi mua ma túy để sử dụng là vi phạm, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên chuyển xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

+ Lý Hoàng Ph không biết việc bị cáo Q mua bán ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên không truy cứu trách nhiệm đối với Phương là có căn cứ.

+ Người đàn ông tên Q1 bán ma túy cho bị cáo Q do chưa xác định được họ, địa chỉ nên chưa làm việc được. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố:

- Bị cáo Phạm Thị Tố Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Phạm Thị Tố Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/5/2022.

* Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Biện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

* Tịch thu tiêu hủy: Vật chứng là ma túy còn lại sau khi đã giám định, gồm:

+ 01 (Một) hộp giấy được niêm phong (Vụ số: 70/KLGT-PC09(MT) ngày 24/5/2022) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Trung S. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định (theo Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 27/5/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A), khối lượng: Mẫu M1: 4,8922g (Bốn phẩy tám chín hai hai gam), Mẫu M2: 0,6662g (Không phẩy sáu sáu sáu hai gam).

+ 01 (Một) bọc nilon trong suốt (đã qua sử dụng).

* Tịch thu sung quỹ:

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, model: Vivo Y72 5G, có số IMEI 1: 863206057226911 và số IMEI 2: 863206057226903, trong điện thoại có gắn 2 thẻ SIM. Được niêm phong trong phong vì màu trắng, bên ngoài có ghi “Vụ 172/KL-KTHS(KTSĐT-GT), ngày 23 tháng 7 năm 2022 (Điện thoại gửi giám định)”, có chữ ký, chữ viết mang tên của bên giao, bên nhận và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 24/8/2022 tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A).

* Trả lại tài sản:

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Thị Tố Q 900.000 đồng (chín trăm ngàn) tiền Việt Nam.

+ Trả lại cho ông Trần Văn T: 01 (một) xe mô tô biển số 67B2- X, nhãn hiệu HONDA, số loại: FUTURE FI, màu sơn: Xanh xám, số máy: JC76E0069146; số khung: 7605GZ022304 (đã qua sử dụng).

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án các tài liệu liên quan:

+ 01 (một) bì thư màu trắng, trên bì thư có ghi vụ: 172/KL-KTHS(KTSĐT- GT) ngày 23 tháng 07 năm 2022 (Đĩa DVD kèm theo KLĐT). Được niêm phong có chữ ký của Lê Phước Ng và Giáp Thanh T.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/02/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tịnh Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên).

4. Về án phí: Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Phạm Thị Tố Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo vắng mặt được tính kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 LuậtThi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 12/2023/HS-ST

Số hiệu:12/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về