Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2022/TLST- HS, ngày 28 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Nông Vũ L, sinh ngày 11 tháng 8 năm 1991, tại Huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn H, xã Đ, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn T và bà Vy Thị H; có vợ: Hoàng Thị M; con: Có 02 con; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 29/11/2018 bị Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 415/2018/HSST. Ngày 08/02/2020, chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không có; về nhân thân: Có 01 tiền án chưa được xóa án tích; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2022 đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị M, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn H, xã Đ, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Anh Vy Văn K, vắng mặt.

2. Anh Vy Văn N, vắng mặt

3. Anh Nguyễn Thành H, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 06/01/2022, tại khu vực dốc Nà Giáo thuộc thôn H, xã Đ, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, Công an huyện B phối hợp cùng Công an các xã Đồng Ý, Vạn Thủy, huyện Bắc Sơn phát hiện Vy Văn K, sinh năm 1996, trú tại thôn N, xã V, huyện B đang sử dụng trái phép chất ma túy. Vy Văn K khai nhận số ma túy vừa sử dụng xong là ma túy Heroine mà K vừa mua với Nông Vũ L, sinh năm 1991, trú tại thôn H, xã Đ, huyện B, tỉnh Lạng Sơn tại khu vực dốc Nà Giáo thuộc thôn H, xã Đ, huyện B với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sử dụng cho bản thân, khi vừa sử dụng xong thì bị lực lượng Công an phát hiện, lập biên bản sự việc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Căn cứ lời khai của Vy Văn K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nông Vũ L phát hiện, thu giữ: Trong nhà vệ sinh của L có 01 túi nilon màu trắng bên trong có 42 (bốn mươi hai) gói giấy nhỏ bằng giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine; số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) trong túi quần dài đằng trước bên trái L đang mặc; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, vỏ màu xanh, số IMEI1: 860812042143591, số IMEI2: 860812042143583, gắn sim số thuê bao 0382136603; Số tiền 5.050.000đ (năm triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ trong ví tiền của L. Tổ công tác đã đưa người cùng tang vật về trụ sở Công an huyện Bắc Sơn để xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra làm rõ: Nông Vũ L là người nghiện chất ma túy Heroine từ năm 2015 đến nay. Khoảng 16 giờ ngày 31/12/2021, L một mình đi xe ô tô khách xuống khu vực đường tròn Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên gặp và mua với một người đàn ông không quen biết 01 (một) cục ma túy Heroine được bọc bằng túi nilon màu đen với giá 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng), mục đích để sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, L bắt xe khách quay trở về nhà và chia nhỏ số ma túy mua được thành 57 (năm mươi bảy) gói, trong đó bán cho Vy Văn K 02 gói cụ thể như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06/01/2022 Nông Vũ L đang ở nhà của mình thì nhận được tin nhắn của Vy Văn K đến nick face book tên “Leroi Saka” của L hỏi mua ma túy, K nhắn:“còn không cho em hai trăm”, L hiểu ý K hỏi mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền ma túy nên đồng ý và hẹn K ở dốc đường đi vào xã V thuộc thôn H, xã Đ. Sau đó, L lấy 02 gói ma túy Heroine đi đến chỗ hẹn gặp K. Tại đây, L bán cho K 02 gói ma túy Heroine, K đưa cho L 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) như đã thỏa thuận từ trước. Sau khi bán ma túy cho K xong, L đi về nhà, K đem ra bụi cây cỏ ven đường tự sử dụng hết chỗ ma túy mua được, khi vừa sử dụng xong thì bị lực lượng công an phát hiện lập biên bản như nêu trên.

Ngày 07/01/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 01 đối với vật chứng nghi là ma túy thu giữ của Nông Vũ L. Tại bản kết luận giám định số: 52/KL-PC09 ngày 08/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

Phong bì ghi chữ “Tang vật thu giữ trong nhà vệ sinh Nông Vũ L” bên trong có:

- Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,974 gam (đã trừ bì).

Ngày 18/01/2022, ngày 25/3/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn ra Quyết định trưng cầu giám định số 04, 25 đối với số tiền thu giữ khi khám xét nhà Nông Vũ L.

Tại Kết luận giám định số 100/KLGĐ-PC09 ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: 01 (một) tờ tiền Việt Nam loại mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) trong phong bì niêm phong gửi giám định là tiền thật..

Tại Kết luận giám định số 169/KL-KTHS ngày 04 tháng 4 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đối với số tiền 5.050.000đ (năm triệu không trăm năm mươi nghìn) thu giữ trong ví của Nông Vũ L, kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam được niêm phong trong phong bì gửi giám định là tiền thật.

Qua điều tra mở rộng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn xác định ngoài lần bán trái phép chất ma túy như đã nêu trên, số ma túy mua ngày 31/12/2021 còn 55 gói, Nông Vũ L đã tự sử dụng hết 07 gói; 01 gói L khai bán cho Nguyễn Hữu T, tuy nhiên không có cơ sở để khẳng định lần mua bán trái phép chất ma túy này do qua điều tra, xác minh T hiện nay không có mặt ở địa phương, không biết đi đâu, làm gì; 42 gói đã bị cơ quan Công an thu giữ; 05 gói bán lại cho các đối tượng nghiện, cụ thể như sau:

Bán cho Vy Văn K: Khoảng 14 giờ ngày 05/01/2022 Nông Vũ L đang ở nhà thì Vy Văn K nhắn tin qua nick face book tên “Leroi Saka” của L hỏi mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền ma túy, L đồng ý và hẹn K ở dốc đường đi vào xã V thuộc thôn H, xã Đ. Sau đó, L lấy 02 gói ma túy Heroine đi đến chỗ hẹn gặp K và bán cho K với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Sau khi bán ma túy cho K xong, L đi về nhà, K đem ma túy mua được tự sử dụng hết.

Bán cho Vy Văn N, sinh năm 1997, trú tại thôn H, xã Đ, huyện B 02 lần, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 31/12/2021 Nông Vũ L nhờ Vy Văn N lên thị trấn B để đón L về nhà. Trên đường đi về, đến đoạn đường thuộc thôn H, xã Đ, huyện B, N hỏi L “có ma túy không”, L trả lời là “có”, N bảo L bán cho N 100.000đ (một trăm nghìn đồng) tiền ma túy, L đồng ý. N đưa cho L 100.000đ (một trăm nghìn đồng), L đưa cho N 01 gói ma túy Heroine. Sau đó N đưa L về nhà của L, còn N đem ma túy đi tự sử dụng hết.

Lần 2: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 04/01/2022, L đang ở nhà thì N đến nhà hỏi mua 01 gói ma túy. L bảo N 30 phút sau quay lại. Khoảng 30 phút sau N quay lại nhà L thì L cầm 01 gói ma túy Heroine ra ngoài đường gặp và bán cho N với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy Vy Văn N đem đi tự sử dụng hết.

Bán cho Nguyễn Thành H, sinh năm 1988, trú tại thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn 01 lần: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 02/01/2022 L gặp H ở quán nước gần khu vực cổng chợ Bắc Sơn. H hỏi L: “có không để anh một trăm” ý là có ma túy không thì bán cho H 100.000đ. L trả lời là: “có”, L đưa cho H 01 gói ma túy Heroine, do H không có tiền lẻ nên H bảo L đợi để H đi đổi tiền, khoảng 10 phút sau H quay lại đưa cho L 100.000đ. Sau khi mua được ma túy H đem đi tự sử dụng hết.

Bản Cáo trạng số 07/CT-VKSBS-HS, ngày 28/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Vũ L về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Bản cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nông Vũ L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 50, của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nông Vũ Lệ từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 46; b, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư được dán kín, niêm phong bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,912 gam chất ma túy Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ), gồm: 01 (một) túi nilon trong suốt; 42 (bốn mươi hai) vỏ gói giấy.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, vỏ màu xanh; 01 (một) phong bì thư được niêm phong dán kín, bên trong có số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Trả lại cho người liên quan chị Hoàng Thị M: 01 (một) phong bì (cũ) được niêm phong dán kín, bên trong phong bì có Số tiền 5.050.000đ (năm triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).

Bị cáo Nông Vũ L phải nộp truy thu số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người liên quan không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa những người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai trong hồ sơ. Bị cáo và Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử; nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có căn cứ xác định: Bị cáo Nông Vũ L là người nghiện ma túy Heroine, đã bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích. Để có ma túy sử dụng L thường xuống khu vực đường tròn Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên gặp và mua ma túy Heroine với những người không quen biết để sử dụng và bán kiếm lời. L đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy Heroine cho các đối tượng nghiện trên địa bàn. Khoảng 16 giờ ngày 31/12/2021, tại khu vực đường tròn Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Lệ mua 01 (một) cục ma túy Heroine với một người đàn ông không quen biết với giá 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng). Về nhà L đã chia số ma túy mua được thành nhiều gói nhỏ, mục đích để sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06/01/2022, L bán cho Vy Văn K 02 gói ma túy Heroine với giá 200.000đ tại khu vực dốc Nà Giáo, thuộc thôn H, xã Đ, huyện B. Sau khi mua được ma túy K đem đi sử dụng, khi đang sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang. Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Sơn tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nông Vũ L, phát hiện thu giữ 42 gói ma túy Heroine, qua giám định là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,974 gam (đã trừ bì). Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nông Vũ L phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Cáo trạng số 07/CT-VKSBS-HS, ngày 28/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nông Vũ L phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Đây là vụ án mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân là người nghiện ma túy nên hiểu được tác hại của ma túy đối với con người, cộng đồng và xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng do nghiện ma túy nên vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và đó cũng là nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe, làm gương cho những người khác có ý định thực hiện hành vi phạm tội tương tự.

[5] Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt. Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu vì đang có tiền án; về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo mua ma túy về để sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã có một tiền án về tội tang trữ trái phép chất ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, từ bỏ ma túy trở thành người có ích cho xã hội mà vẫn cố tình phạm tội nên cần có một hình phạt nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe, làm gương cho những người khác có ý định thực hiện hành vi phạm tội tương tự. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nông Vũ L tại khu vực đường tròn Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên do L không biết tên, tuổi, địa chỉ, lai lịch người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[10] Đối với các đối tượng Vy Văn K, Vy Văn N, Nguyễn Thành H đều là người nghiện ma túy, mục đích mua ma túy với về để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện nên Công an huyện Bắc Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và chuyển tài liệu cho Công an các xã lập hồ sơ theo dõi, quản lý người nghiện và giáo dục các đối tượng tại xã theo quy định của pháp luật.

[11] Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) phong bì thư có chữ “Tang vật thu giữ trong nhà vệ sinh của Nông Vũ L” (cũ), được dán kín, niêm phong bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,912 gam chất ma túy Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ), gồm: 01 (một) túi nilon trong suốt; 42 (bốn mươi hai) vỏ gói giấy là của bị cáo Nông Vũ L là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, vỏ màu xanh, số IMEI1:

860812042143591, số IMEI2: 860812042143583, gắn sim số thuê bao 0382136603 là điện thoại của Nông Vũ L dùng để liên lạc nhắn tin trao đổi mua bán ma túy qua face book với Vy Văn K nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) phong bì thư được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì có dòng chữ viết tay “Số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) thu giữ trong túi quần bên trái Nông Vũ L”, bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm: 01 (một) tờ loại mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) là tiền do Nông Vũ L bán trái phép chất ma túy cho Vy Văn K mà có nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) phong bì (cũ) được niêm phong dán kín, mặt trước phong bì có ghi “Số tiền 5.050.000đ (năm triệu không trăm năm mươi nghìn đồng)”. Đây là tiền của chị Hoàng Thị M, sinh năm 1994, trú tại thôn H, xã Đ, huyện B là vợ của bị cáo Nông Vũ L làm thuê mà có, đưa cho bị cáo để nuôi con ăn học. Tại phiên tòa chị M xin lại nên trả lại cho chị Hoàng Thị M.

- Cần truy thu số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Nông Vũ L do bán ma túy mà có.

[13] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 50, của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 46; điểm b, c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Vũ L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nông Vũ L 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 06 tháng 01 năm 2022.

3. Về các biện pháp tư pháp: Bị cáo Nông Vũ L phải nộp truy thu số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư được dán kín, niêm phong bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,912 gam chất ma túy Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ), gồm: 01 (một) túi nilon trong suốt; 42 (bốn mươi hai) vỏ gói giấy.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, vỏ màu xanh; 01 (một) phong bì thư được niêm phong dán kín, bên trong có số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Trả lại cho người liên quan chị Hoàng Thị M: 01 (một) phong bì (cũ) được niêm phong dán kín, bên trong phong bì có số tiền 5.050.000đ (năm triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28 tháng 4 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Sơn).

5. Về án phí: Bị cáo Nông Vũ L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về