Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 115/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 115/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2022/HSST ngày 13 tháng 5 năm 2022, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hù A C (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1993; Nơi sinh: Tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở trước ngày bị bắt: Bản L, xã M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hù A S và bà Cứ Thị S; bị cáo có vợ là Mùa Thị Í và 02 người con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2022 sau đó bị tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Lò Văn K - Sinh năm: 2003; Địa chỉ: Bản X, xã P, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Có mặt.

+ Ông Quàng Văn C - Sinh năm: 1996; Địa chỉ: Bản P, xã N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 07/01/2022, Lò Văn K đến nhà Hù A C ở Bản L, xã M, thành phố Đ, gặp C đang ngồi trên giường trong nhà hỏi mua 01 viên Hồng phiến, C nói giá 25.000 đồng, K xin trả trước 20.000 đồng, C đồng ý. K lấy 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng đưa cho C, C cất vào túi áo khoác đang mặc, đưa cho K 01 viên Hồng phiến, K đi ra ngoài. Ngay lúc này thì Quàng Văn C vào và hỏi C, có hồng phiến không, bán cho C 02 viên Hồng phiến, C nói đi ra ngoài đã, tại bếp nhà C, C hỏi C bao nhiêu tiền một viên, C nói 25.000đ một viên, C đưa cho C 50.000đ, C nhận tiền để vào túi áo khoác đang mặc rồi đưa cho C 02 viên hồng phiến được gói bằng nilon màu xanh. Mua được ma túy K, C tự ý mang ra vườn sau bếp của nhà C, lấy ống điếu tự chế có sẵn ở đó để sử dụng. Khi K, C vừa sử dụng hết ma túy, C vẫn đang ở trong bếp thì bị tổ công tác Công an thành phố Đ phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng vào hồi 09 giờ 40 phút cùng ngày. C khai nguồn gốc số ma túy C bán cho K, C là do C mua của một người phụ nữ không quen biết với giá 60.000đ vào khoảng 08 giờ cùng ngày.

Tại Bản cáo trạng số: 61/CT-VKSTPĐBP ngày 13/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Hù A C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lò Văn K trình bày: Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 07/01/2022, Lò Văn K đến nhà Hù A C ở Bản L, xã M, thành phố Đ, gặp C đang ngồi trên giường trong nhà hỏi mua 01 viên Hồng phiến, C nói giá 25.000 đồng, K xin trả trước 20.000 đồng, C đồng ý. K lấy 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng đưa cho C, C đưa cho K 01 viên Hồng phiến. Mua được ma túy K đi ra đến cửa nhà C thì gặp một người đàn ông, tôi không quen biết người này (sau này tôi mới biết tên là C), K nghe thấy C hỏi C là có hồng phiến bán không, bán cho 02 viên, C nói là có và nói giá là 25.000đ một viên, còn sau đó C và người đàn ông đó mua bán ma túy với nhau như thế nào thì K không biết. Sau đó K tự ý ra vườn sau bếp của nhà C, lấy ống điếu tự chế có sẵn ở đó để sử dụng. Khi K đang sử dụng ma túy thì thấy người đàn ông vừa vào nhà C đi ra vườn sau bếp nhà C để sử dụng ma túy. Khi K vừa sử dụng hết ma túy, thì bị tổ công tác Công an thành phố Đ phát hiện.

Trong quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Quàng Văn C trình bày: Khoảng 09 giờ, ngày 07/01/2022, Quàng Văn C từ nhà đến nhà Hù A C ở Bản L, xã M, thành phố Đ để mua ma túy, khi vào nhà C, C có gặp một thanh niên không quen biết từ trong nhà C đi ra. Gặp C tôi hỏi có hồng phiến không, bán cho hai viên, C bảo C đi ra ngoài đi, sau đó C và C đi xuống bếp, C có hỏi 1 viên bao nhiêu tiền, C bảo 25.000đ một viên, C đưa cho C một tờ tiền mệnh giá 50.000đ, C đưa cho C một gói bên trong có 02 viên hồng phiến. Khi nhận ma túy từ C, C tự ý đi ra vườn phía sau bếp nhà C để sử dụng ma túy, khi đang sử dụng ma túy thì bị Công an phát hiện.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hù A C từ 07 đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm ruộng thu nhập không ổn định, không có tài sản có giá trị nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 02 bật lửa ga, 02 điếu tự chế, 02 mảnh giấy bạc; Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 70.000 đồng.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Đại diện viện Kiểm sát không có tranh luận gì với viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Quàng Văn C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do. Xét thấy trong quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Khoảng hơn 09 giờ, ngày 07/01/2022, tại nhà của mình ở Bản L, xã M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, Hù A C đã có hành vi bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine cho 02 người, cụ thể: Bị cáo bán cho Lò Văn K 01 viên hồng phiến thu được 20.000đ, ngay sau đó bị cáo lại bán cho Quàng Văn C 02 viên hồng phiến thu được 50.000đ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng cũng như nhận thức được chính sách pháp luật hình sự của nhà nước đối với những hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho hai người là K và C. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội rất lớn, không những xâm phạm những quy định của nhà nước về chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Đ. Do vậy, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về Nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trước khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, các bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Tại giai đoạn điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Từ những phân tích nêu trên, HĐXX thấy rằng:

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[7] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung theo quy đinh tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, tuy nhiên xét bị cáo làm ruộng, thu nhập không ổn định, không có tài sản có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các h ành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác:

Bị cáo khai, bị cáo mua ma túy của một người phụ nữ nhưng không quen biết, không biết tên, địa chỉ nên không có cơ sở xem xét, giải quyết;

Bị cáo Hù A C không biết việc K, C sử dụng ma túy tại vườn nhà bị cáo nên không đặt vấn đề xử lý.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của K, C tại vườn nhà bị cáo C, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính. Chính vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án.

[10] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 bật lửa ga, 02 điếu tự chế, 02 mảnh giấy bạc do K C sử dụng để sử dụng ma úy và không có giá trị. Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 70.000 đồng của bị cáo vì là tiền bị cáo bán ma túy cho K, C mà có.

[11] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Hù A C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hù A C 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 07/01/2022).

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) chiếc ống điếu tự chế bằng vỏ chai nhựa đã qua sử dụng; 02 (hai) mảnh giấy bạc màu trắng có vết Cy xém đen; 01 (một) bật lửa gas màu xanh, nhãn hiệu TANAKA đã qua sử dụng; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ, nhãn hiệu THONG NHAT đã qua sử dụng;

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 70.000 đồng của bị cáo Hù A C.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/5/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23/6/2022).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 115/2022/HS-ST

Số hiệu:115/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về