TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 114/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 23 tháng 09 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai C, xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2022/TL-ST-HS, ngày 06 tháng 09 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2022/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 09 năm 2022 đối với bị cáo.
- Lù Văn H: Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1979; nơi sinh: Huyện Mường T, tỉnh Lai C; Nơi ĐKHKTT: Khu phố 9, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Đảng, đoàn: Không; Con ông Lù Văn L, sinh năm 1942 và con bà Đao Thị C, sinh năm 1945; Vợ: Lường Thị C, sinh năm 1976 (đã ly hôn), hiện đang sống chung như vợ chồng với Lò Me D, sinh năm 1993; Con: Có 03 con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2022; Tiền án: Có 02 tiền án ( ngày 04/03/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai C, xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 29/01/2013 chấp hành xong hình phạt tù. Đến ngày 22/08/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai C, xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đến ngày 08/07/2020 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống), tính đến thời điểm phạm tội ngày 26/04/2022 bị cáo chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; Nhân thân đã bị xử lý; Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường T, tỉnh Lai C từ ngày 26/04/2022 cho đến nay - Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Lù Văn H: Ông Trần Văn Hùng - Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai C - Có mặt.
- Người làm chứng:
+. Anh: Lý Văn T, sinh năm 1995 - Trú tại: Bản B, xã Bum N, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Vắng mặt.
+. Anh: Lý Văn V, sinh năm 1979 - Trú tại: Khu phố 09, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 26/04/2022, Lù Văn H đi bộ trên đường ô tô sang nhà Lý Văn V để chơi thì một người đàn ông lạ mặt đang điều khiển xe máy đi từ hướng trung tâm y tế huyện Mường T đến khu phố 8 thị trấn Mường T, huyện Mường T. Hoàng vẫy tay ra tín hiệu yêu cầu người đàn ông này dừng xe lại, qua trao đổi, H đã mua được của người đàn ông này 03 (ba) gói heroine (01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, 02 còn lại mỗi gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng) với giá 150.000 đồng, mục đích là để sử dụng và bán kiếm lời. H cất giấu 03 gói Heroine vào trong túi quần đang mặc rồi tiếp tục đi đến nhà V, khi H và V đang ngồi xem ti vi tại nhà V thì có lý Văn T đến gặp H hỏi mua Heroine để sử dụng. H lấy trong túi quần đang mặc 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng bán cho T với giá 100.000 đồng, H nhận tiền rồi cho vào túi quần bên trái đang mặc trên người, quá trình mua bán Heroine giữa H và T bị V nhìn thấy nên V đã đuổi H và T ra khỏi nhà mình. sau đó T đi ra khỏi nhà V, còn H tiếp tục ngồi xem ti vi cho đến hồi 08 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện Mường T phát hiện bắt quả tang, lập biên bản thu giữ 02 gói Heroine còn lại cùng với số tiền 100.000 đồng do H bán trái phép Heroine cho T mà có theo quy định của pháp luật.
Tại kết luận giám định tư pháp số 41/KLGĐ, ngày 26/04/2022 của người giám định tư pháp thuộc Công an huyện Mường T, tỉnh Lai C kết luận: 02 gói chất bột khô, màu trắng vật chứng thu giữ của Lù Văn H có tổng khối lượng là 0,31gam.
Tại kết luận giám định số: 359/GĐ-KTHS ngày 28/04/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai C kết luận: 02 (hai) mẫu chất bột màu trắng ( ký hiệu mẫu 01, mẫu 02) gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.
Tại kết luận giám định số: 360/GĐ-KTHS ngày 28/04/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai C kết luận: 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng có mã ký hiệu NM 20350147 và AX 21354544 gửi giám định là tiền thật.
Tại bản cáo trạng số: 72/CT-VKS-MT ngày 05 tháng 09 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố Lù Văn H về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý:
- Trách nhiệm hình sự: Đối với Lù Văn H về tội danh "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
- Về hình phạt chính: Áp dụng Điều 38; điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lù Văn H từ: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do điều kiện kinh tế của bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
điểm a, điểm b, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu hồng dùng để gói các gói Heroine là vật chứng còn lại thu giữ của Lù Văn H. Tịch thu sung quỹ nhà nước: 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng có mã ký hiệu NM 20350147 và AX 21354544 gửi giám định là tiền thật, do Lù Văn H bán trái phép Heroine cho Lý Văn T mà có.
- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay, sau khi phân tích tính chất, hành vi, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo, người bào chữa đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T về tội danh "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc Thái, nhận thức pháp luật còn hạn chế, sinh sống ở huyện biên giới có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự; Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, bị cáo không có ý kiến gì bổ sung, đồng ý với lời bào chữa của người bào chữa.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa việc bị cáo khai báo là hoàn toàn tự nguyện, không bị mớm cung, ép cung, bị cáo không khiếu nại gì về quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Sau khi tranh luận Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên mức hình phạt chính như đã đề nghị. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 08 giờ 10 phút ngày 26/04/2022 tại nhà của anh Lý Văn V thuộc khu phố 09, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C. Lù Văn H đã bán trái phép 01 (một) gói Heroine cho Lý Văn T để lấy số tiền 100.000 đồng. Vào hồi 08 giờ 30 phút cùng ngày cũng tại nhà của Lý Văn V, khi H đang tàng trữ trái phép 0,31 gam Heroine để sử dụng và bán kiếm lời thì bị tổ công tác Công an huyện Mường T phát hiện bắt quả tang, số Heroine mà H đang tàng trữ và số Heroine H bán cho Lý Văn T có cùng chung nguồn gốc. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy", vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố bị cáo về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.
[2]. Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: Bị cáo Lù Văn H luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần được xem xét áp dụng cho bị cáo, nhận thấy: Bị cáo là người dân tộc Thái, nhận thức pháp luật còn hạn chế, sinh sống ở huyện biên giới có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được xem xét áp dụng cho bị cáo.
[4]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Mặc dù bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nhưng do đây là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5]. Về nhân thân bị cáo Lù Văn H có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ được bố mẹ nuôi cho ăn học hết lớp 06/12, lớn lên ở nhà tham gia lao động sản xuất tại địa phương. Bản thân đã có 02 tiền án ( ngày 04/03/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai C, xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 29/01/2013 chấp hành xong hình phạt tù. Đến ngày 22/08/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai C, xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đến ngày 08/07/2020 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống), tính đến thời điểm phạm tội ngày 26/04/2022 bị cáo chưa được xóa án tích. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Bị cáo không chịu khó tu dưỡng, rèn luyện. Bị cáo nhận thức rõ được hành vi mua bán, tàng trữ chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng chất ma túy và lợi ích của bản thân nên đã cố ý phạm tội.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, xét thấy: Bị cáo là người sử dụng chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, gia đình khó khăn sinh sống ở huyện biên giới có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.
[7]. Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm b, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu hồng dùng để gói các gói Heroine là vật chứng còn lại thu giữ của Lù Văn H. Tịch thu sung quỹ nhà nước: 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng có mã ký hiệu NM 20350147 và AX 21354544 gửi giám định là tiền thật, do Lù Văn H bán trái phép Heroine cho Lý Văn T mà có.
[8]. Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lù Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9]. Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận: Bị cáo Lù Văn H đã phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; do vậy ý kiến của Kiểm sát viên và của người bào chữa tại phiên tòa về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử lý vật chứng; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là có cơ sở đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10]. Đối với người đàn ông lạ mặt đã bán Heroine với giá 150.000 đồng cho bị cáo Lù Văn H. Trong qúa trình điều tra không xác định được lai lịch của người đàn ông này nên không đủ căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[11]. Đối với Lý Văn T. Qúa trình điều tra xác định: Sau khi mua được Heroine , T đã sử dụng hết, ngày 25/07/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường T đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức cảnh cáo đối với T. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T không truy tố. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[12]. Đối với Lý Văn V, khi phát hiện H và T trao đổi, mua bán trái phép chất ma túy tại nhà ở của mình, V không đồng ý và đuổi H và T ra khỏi nhà, do vậy V không đồng phạm với H. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T không truy tố. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo: Lù Văn H phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
- Căn cứ vào Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lù Văn H: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 26/04/2022.
- Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự: Không áp dụng đối với bị cáo Lù Văn H.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm b, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu hồng dùng để gói các gói Heroine là vật chứng còn lại thu giữ của Lù Văn H. Tịch thu sung quỹ nhà nước: 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng có mã ký hiệu NM 20350147 và AX 21354544 gửi giám định là tiền thật, do Lù Văn H bán trái phép Heroine cho Lý Văn T mà có.
- Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lù Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 114/2022/HS-ST
Số hiệu: | 114/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về