Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 113/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 113/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2022/TLST-HS ngày 26/5/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2022/QĐXXST-HS ngày 17/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trường K, sinh năm 1980, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: Số A, đường Phạm Văn C, phường B, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tiến H (chết) và bà Lưu Thị T (chết); Vợ tên Lê Thị Tú A (đã ly hôn); có 03 người con (lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2015); Tiền án: Ngày 13/4/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2017/HS-ST. Ngày 04/5/2021, K chấp hành xong án phạt tù; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 09/3/2006, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội Cưỡng đoạt tài sản theo Bản án hình sự phúc thấm số 100/2006/HS-PT. Bị tạm giữ từ ngày 14/10/2021 và tạm giam cho đến nay. Có mặt.

Người làm chứng: Dương Hữu H, Nguyễn Duy T. vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/10/2021, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an phường Tương Bình H tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng trọ số 1 thuộc Khu nhà trọ A, địa chỉ tại tổ B, khu phố C, phường Tương Bình H, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì lúc này trong phòng trọ có các đối tượng, gồm Lê Thanh P, Nguyễn Văn B và Nguyễn Trường K. Quá trình kiểm tra, lực lượng công an phát hiện tại vị trí Nguyễn Trường K thường nằm ngủ có 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy và nhận thấy K có biểu hiện mới vừa sử dụng ma túy xong nên khi bị lực lượng công an xét hỏi thì K khai nhận K là đối tượng sử dụng ma túy và K đang cất giấu ma túy ở phía sau gối nằm của K. Lực lượng công an tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) hủ nhựa có nắp đậy chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống nỏ có một đầu hình bầu dục; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) hộp giấy màu xanh và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh-đen. Đồng thời, qua làm việc, K khai nhận chất tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon hàn kín và trong 01 (một) hủ nhựa có nắp đậy là ma túy đá (Methamphetamine) do K cất giấu nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma túy để có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dụng. Do đó, lực lượng công an tiến hành đưa K về trụ sở Công an phường Tương Bình H để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với K về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma túy.

Quá trình xác minh và điều tra xác định như sau: Nguyễn Trường K có mối quan hệ quen biết ngoài xã hội với Nguyễn Văn B và do ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh covid-19 nên K chưa tìm được chỗ thuê trọ. Ngày 07/10/2021, K đến phòng trọ số 1 của B chơi, sau đó xin ở nhờ một vài ngày để tìm phòng trọ nên B hỏi ý kiến của Lê Thanh P (do phòng trọ số 1 là do vợ chồng của Lê Thanh P và vợ chồng của Nguyễn Văn B cùng thuê trọ và sinh sống) thì P đồng ý. Trong thời gian sinh sống tại phòng trọ, vợ chồng P và vợ chồng B mỗi gia đình ở một phòng riêng, còn K thì sinh hoạt (ăn, ở) tại khu vực còn lại của phòng trọ. Khoảng 19 giờ 00 ngày 13/10/2021, K thuê xe ôm công nghệ (Grab mô tô) đi từ phòng trọ trên đến khu vực huyện Hóc M, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (hiện chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy đá với số tiền là 5.000.000 (Năm triệu) đồng. Sau khi mua ma túy xong, K thuê xe ôm công nghệ (Grab mô tô) trở về phòng trọ rồi phân số ma túy đã mua ra để trong 01 (một) gói nylon hàn kín và trong 01 (một) hủ nhựa có nắp đậy rồi cất giấu ở phía sau gối nằm của K trong phòng trọ. Khi có các đối tượng nghiện liên hệ K (thông qua số điện thoại 0908 438 829 và số 0923 653 263) để hỏi mua ma túy thi K lấy số ma túy trên đem ra bên ngoài phòng trọ để chia nhỏ lại rồi giao bán cho các đối tượng nghiện ở khu vực đầu hẻm đi vào khu nhà trọ. Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/10/2021, khi lực lượng công an tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng trọ trên thì phát hiện K cất giấu ma túy ở phía sau gối nằm của K, đồng thời K khai nhận số ma túy trên do K tàng trữ nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma túy để có tiền tiêu xài cá nhân và có ma túy để sử dụng nên lực lượng công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với K. Đối với Nguyễn Văn B và Lê Thanh P, qua làm việc K, B và P đều khai nhận việc K tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng trọ do vợ chồng B và vợ chồng P thuê thì B và P hoàn toàn không biết nên lực lượng công an không đề cập, xử lý đối với B và P.

Quá trình xác minh và điều tra còn xác định: Từ khi thực hiện hành vi phạm tội cho đến khi bị bắt, Nguyễn Trường K khai nhận đã 03 (ba) lần mua ma túy về bán lại cho các đối tượng nghiện để có tiền tiêu xài và có ma túy sử dụng, lần thứ nhất vào khoảng giữa tháng 9/2021, lần thứ hai vào khoảng đầu tháng 10/2021, mỗi lần mua đều với số tiền 1.000.000 (Một triệu) đồng; riêng lần thứ ba, K mua ma túy vào ngày 13/10/2021 với số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng K chưa sử dụng và chưa bán lại cho các đối tượng nghiện thi bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện và bắt giữ. Ngoài ra, K khai nhận đã nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng nghiện trên địa bàn thành phố T, trong đó xác định được K đã bán ma túy cho Dương Hữu H 02 (hai) lần: lần thứ nhất, vào ngày 08/10/2021; lần thứ hai, vào ngày 12/10/2021, mỗi lần K đều bán ma túy cho H với số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng và hẹn H ở khu vực đầu hẻm đi vào khu nhà trọ để giao ma túy. Bên cạnh đó, K còn khai nhận đã bán ma túy cho Nguyễn Duy T 02 (hai) lần: lần thứ nhất, vào ngày 10/10/2021; lần thứ hai, vào sáng ngày 13/10/2021, mỗi lần K đều bán cho T với số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng và hẹn T tại khu vực đầu hẻm đi vào khu nhà trọ để giao ma túy.

Căn cứ Kết luận giám định số 687/MT-PC09 ngày 20/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tinh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng M1 = 2,4855 gam và M2 = 19,7517 gam. Số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng M1 = 2,4134 gam và M2 = 19,7001 gam, loại Methamphetamine (đã được niêm P).

Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định nêu trên và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống nỏ có một đầu hình bầu dục; 01 (một) cân tiểu ly và 01 (một) hộp giấy màu xanh, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh-đen, quá trình xác minh và điều tra xác định, Nguyễn Trường K đã sử dụng điện thoại di động trên để liên lạc bán ma túy cho các đối tượng nghiện nên Viện kiếm sát nhân dân thành phố T ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án tịch thu, nộp Ngân sách nhà nước.

Đối với Dương Hữu H và Nguyễn Duy T, quá trình điều tra xác định Hiếu và Thắng là những người đã mua ma túy của Nguyễn Trường K để nhằm mục đích sử dụng và đã sử dụng hết số ma túy đã mua. Ngày 24/12/2021, Công an thành phố T đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 40/QĐ-XPHC và số 41/QĐ-XPHC đối với H và T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với mức tiền phạt là 750.000 (Bảy trăm năm mươi nghìn) đồng/người.

Đối với người đàn ông có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Trường K, quá trình điều tra, K khai nhận không biết rõ nhân thân, lai lịch của người đàn ông này và chỉ nhớ số điện thoại là 0912.425.465. Ngày 03/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã có công văn số 1209/CV-CQ.CSDT đề nghị Tổng công ty dịch vụ viễn thông VNPT Vinaphone cung cấp thông tin về chủ số thuê bao 0912.425.465 nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 105/CT-VKS-HS ngày 23/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Nguyễn Trường K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i và q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i và q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Trường K mức hình phạt từ 11 năm tù đến 13 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng M1 = 2,4134 gam và M2 = 19,7001 gam, loại Methamphetamine và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống nỏ có một đầu hình bầu dục; 01 (một) cân tiểu ly và 01 (một) hộp giấy màu xanh. Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh-đen của Nguyễn Trường K.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trường K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm P, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 14/10/2021, tại phòng trọ số 1, Khu nhà trọ 3838, thuộc tổ 31, khu phố 3, phường Tương Bình H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Trường K bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 22,2372 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích mua bán trái phép chất ma túy để có tiền tiêu xài cá nhân. Nguyễn Trường K đã nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng nghiện trên địa bàn thành phố T, trong đó xác định K đã bán ma túy cho Dương Hữu H 02 (hai) lần vào ngày 08/10/2021 và vào ngày 12/10/2021; bán ma túy cho Nguyễn Duy T 02 (hai) lần vào ngày 10/10/2021 và ngày 13/10/2021. Bản thân bị cáo K đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý là phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b, i và q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Ma túy không chỉ gây tác hại đến sức khỏe, nhân cách con người, mà còn cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ma túy cũng chính là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo biết tác hại của ma túy và biết hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng vì nhu cầu của bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Xét bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt về hành vi cưỡng đoạt tài sản và mua bán trái phép chất ma túy nhưng bị cáo vẫn không tích cực cải tạo. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp. sát.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định có khối lượng M1 =2,4134 gam; M2 = 19,7001 gam, loại Methamphetamine là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) bình nhựa, 01 (một) ống hút nhựa, 01 (một) ống nỏ có một đầu hình bầu dục; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) hộp giấy màu xanh là công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm nên căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh-đen thu giữ của bị cáo Nguyễn Trường K là công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, i và q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ các Điều 106, 136, 260, 331,333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường K 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/10/2021.

2/ Về xử lý vật chứng:

2.1/ Tịch thu tiêu hủy:

- 02 (hai) bì thu niêm P ghi số lần lượt 687(M1)/PC09 và 687(M2)/PC09 có chữ ký người bị bắt Nguyễn Trường K, cán bộ niêm P Nguyễn Thành T và đóng dấu niêm P bằng hình dấu tròn đỏ của Công an phường Tương Bình H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, đóng dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Theo Kết luận giám định số 687/MT-PC09 ngày 20/10/2021 và biên bản đóng gói niêm P và giao, nhận đối tượng giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong gồm có:

+ 01 (một) gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu Ml) là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng hoàn lại sau giám định là 2,4134 gam.

+ 01 (một) lọ nhựa đậy kín chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng hoàn lại sau giám định là 19,7001 gam.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) bình nhựa; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống nỏ có một đầu hình bầu dục.

- 01 (một) cân tiểu ly;

- 01 (một) hộp giấy màu xanh.

2.2/ Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu đen-xanh, số Imei 1: 866815044647737, số Imei 2: 866815044647729 (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động máy).

(Thể hiện tại biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 115.22 ngày 25/5/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T và Công an thành phố T).

3/ Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 113/2022/HS-ST

Số hiệu:113/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về