Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 104/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 104/2022/HS-ST NGÀY 09/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2022 tại Hội trường Trung tâm Văn hóa, thể thao và truyền thanh huyện T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 105/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Trịnh Minh L, sinh năm 1995 tại T. Nơi cư trú: Ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Xuân L1 và bà Nguyễn Thị Mai L2; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Quyết định số 38/QĐ-XPVPHC ngày 03/3/2018, Trưởng Công an xã Tân Phú xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo chưa nộp phạt. Ngày 03/3/2019, hết thời hiệu thi hành quyết định.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/9/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Hà Văn B, sinh năm 1994; địa chỉ: ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T. (vắng mặt)

2. Anh Trần Thanh T, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T. (vắng mặt)

3. Anh Nguyễn Chí T1, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có chất ma túy bán cho người khác và sử dụng, ngày 26/8/2022 Trịnh Minh L liên lạc với người tên “Cu Đen” (Không rõ nhân thân, lai lịch) để mua túy với số tiền 1.700.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, L đem về nhà chia nhỏ số ma túy trên ra sử dụng và bán cho người khác, cụ thể:

Khoảng 17 giờ ngày 31/8/2022, Hà Văn B, sinh năm 1994, ngụ ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T được Trần Thanh T, sinh năm 1993, ngụ ấp Tân C, xã Tân P, huyện T nhờ mua giùm 200.000 đồng ma túy, B gọi điện thoại cho L và được L hẹn đến đường lô gần nhà L bán cho 01 bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, B đưa cho T đem về sử dụng hết. Khoảng 20 phút sau, khi đã sử dụng hết ma túy, T tiếp tục nhờ B mua thêm 200.000 đồng, B gọi điện thoại L và được L hẹn đến ngã tư, lô 3, ấp Tân C, xã Tân P, huyện T để mua bán ma túy, sau đó B kêu T trực tiếp đến điểm hẹn để mua ma túy, sau khi mua được ma túy T sử dụng hết.

Ngoài ra trong tháng 7/2022 (không nhớ ngày), B đã 03 lần bán ma túy cho Nguyễn Chí T1, sinh năm 1995, ngụ ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T, trong đó 01 lần bán với số tiền 300.000 đồng và 02 lần bán với số tiền 200.000 đồng.

Căn cứ vào lời khai của Hà Văn B, Cơ quan điều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của L, thu giữ 01 bịch nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng, là chất ma túy L đã mua của “Cu Đen” và bán cho B còn lại.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Trịnh Minh L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; tự khai ra các lần phạm tội trước đó chưa được phát hiện.

Kết luận giám định số 1081/KL-KTHS ngày 06/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon được hàn kín (Ký hiệu M1 thu giữ của L khi khám xét chổ ở) gửi đến giám định là chất ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0143 gam.

* Kết quả thu giữ vật chứng:

- 05 hột quẹt gas;

- 03 cây kéo bằng kim loại;

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei 1: 8655545054485030;

- 02 đoạn ống hút nhựa;

- 01 chai nhựa;

- 01 nỏ thủy tinh.

Kê biên tài sản: Trịnh Minh L không có tài sản nên Cơ quan điều tra không kê biên.

* Tại bản cáo trạng số: 103/CT-VKSTC ngày 26 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Trịnh Minh L về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Minh L từ 08 (Tám) năm đến 09 (Chín) năm tù. Về xử lý vât chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Minh L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định:

Ngày 01/9/2022, Trịnh Minh L có hành vi cất giấu 0,0143gam ma túy loại Methamphetamine tại nơi ở của L tại địa chỉ ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T. L khai nhận trong ngày 31/8/2022 đã bán ma túy cho Hà Văn B 02 lần tại khu vực ấp Tân C, xã Tân P, huyện T, tỉnh T, số ma túy thu giữ là của L mua của người tên Cu Đen và bán cho B còn lại.

Do đó, đủ cơ sở kết luận bị cáo Trịnh Minh L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về loại độc chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội.

[4] Tính chất vụ án rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hại rất lớn cho xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức rõ việc làm của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với con người và tác hại đối với xã hội là mầm mống gây ra các tệ nạn xã hội khác, tội phạm khác nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng, hám lợi nhuận nhiều, nên bị cáo bất chấp pháp luật. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Bị cáo nhiều lần mua ma túy bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy tại địa phương, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Trịnh Minh L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét toàn diện các tình tiết trong vụ án, cụ thể:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự khai báo rõ ràng về những lần mua bán ma túy trước đó mà chưa bị phát hiện, có căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ dụng cụ sử dụng ma túy đã bị thu giữ. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với điện thoại di động bị cáo dùng vào việc liên lạc mua bán ma túy.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Đối với Trần Thanh T, Hà Văn B, Nguyễn Chí T1 có hành vi mua ma túy để sử dụng trái phép, Cơ quan điều tra đã xử lý trong vụ án khác.

Đối với người tên Cu Đen bán ma túy cho L, chưa xác định được nhân thân, địa chỉ nên xử lý sau.

[9] Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trịnh Minh L 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/9/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei 1: 8655545054485030.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 05 hột quẹt gas;

+ 03 cây kéo bằng kim loại;

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei 1: 8655545054485030;

+ 02 đoạn ống hút nhựa;

+ 01 chai nhựa;

+ 01 nỏ thủy tinh.

(Vật chứng trên hiện Chi Cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh T đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2022).

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Về án phí: Bị cáo Trịnh Minh L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 104/2022/HS-ST

Số hiệu:104/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về