Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 10/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09/03/2022, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2022/TLST-HS ngày 27/01/2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST-HS ngày 23/02/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế V (tên gọi khác: Không), sinh năm 1995 tại Hưng Yên. Nơi ĐKHKTT: Thôn ĐK, xã ĐT, huyện KC, tỉnh Hưng Yên.

Tạm trú tại: Tổ 11, phường PX, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp trước khi phạm tội: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Trần Thị V; chưa có vợ con; tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án số 181/2018/HSST ngày 06/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/3/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định của Toà án: Ông Phùng Đức Tr, Luật sư Văn phòng luật sư Thanh Hoa, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Quang Th, sinh năm 1973; trú tại: tổ 3, phường Hoàng Văn T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 26/10/2021, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên phối hợp cùng Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 5, phường PĐP, thành phố Thái Nguyên phát hiện Nguyễn Thế V, sinh năm 1995; HKTT: thôn ĐK, xã ĐT, huyện KC, tỉnh Hưng Yên (Chỗ ở hiện nay: tổ 2, phường QT, thành phố Thái Nguyên) kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải V đang mặc thu giữ 02 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi đều chứa 50 viên nén màu xám, V khai là ma túy tổng hợp thuốc lắc đang cất giấu để bán, niêm phong ký hiệu A; Kiểm tra túi quần phía trước bên trái của V phát hiện 03 điện thoại di động, trong đó 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng không có gắn thẻ sim, 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số thuê bao 0879.873.833, 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số thuê bao 0921.935.696, niêm phong ký hiệu B; số tiền 3.000.000đ.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra - Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thế V tại tổ 2, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên nhưng không phát hiện thu giữ gì.

Quá trình điều tra xác định như sau: Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 10/10/2021 V một mình đến khu vực gần siêu thị AEON MALL Long Biên, TP Hà Nội mua 100 viên ma tuý tổng hợp hồng phiến hết 10.000.000đ của một người nam giới không rõ họ tên và địa chỉ. Sau khi mua được ma tuý V đem về phòng trọ tại tổ 2, phường QT, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên cất giấu, với mục đích bán lại kiếm lời. Đến khoảng 11 giờ ngày 26/10/2021 có một người nam giới tự giới thiệu tên là H nhà ở thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên gọi điện thoại cho V đặt mua 100 viên ma tuý tổng hợp hồng phiến với giá 12.000.000đ và hẹn V đến 14 giờ 30 phút cùng ngày đem ma tuý ra đoạn đường Cách mạng tháng 8 gần siêu thị điện máy DT thuộc tổ 5, phường PĐP, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên để bán cho Huy nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng và lấy mẫu gửi giám định đối với số chất ma túy thu giữ của Nguyễn Thế V kết quả:

Bì niêm phong ký hiệu A: Cân toàn bộ 100 viên nén màu xám có tổng khối lượng 39,82gam. Lấy 06 viên nén, có khối lượng 2,39 gam gửi giám định niêm phong ký hiệu A1; còn lại 94 viên nén có khối lượng 37,43gam niêm phong ký hiệu A2 lưu kho.

Tại Bản kết luận giám định số: 1527/LK-KTHS ngày 03/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu viên nén màu xám trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma tuý,loại MDMA khối lượng gửi giám định là: 2,39gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là:

39,82gam.

Mở kiểm tra 03 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, vỏ màu vàng thu giữ của Nguyễn Thế V không có dữ liệu gì liên quan đến vụ án.

Vật chứng thu giữ gồm có: 100 viên nén màu xám có tổng khối lượng 39,82gam; 03 điện thoại di động, trong đó 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng không có gắn thẻ sim, 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số thuê bao 0879.873.833, 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số thuê bao 0921.935.696, niêm phong ký hiệu B; số tiền 3.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS-P1 ngày 24/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng đã bị thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt Nguyễn Thế V mức án từ 16 - 17 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:

- Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 niêm phong ký hiệu A1 trên mép dán có chữ ký, họ tên của Nguyễn Thành Trung, Phan Thanh Huy và 02 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 2,240 gam mẫu hoàn lại sau giám định.

+ 01 niêm phong ký hiệu A2 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thế V và các thành phần tham gia và 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 37,43 gam lưu kho.

- Tạm giữ số tiền 3.000.000đ của bị cáo và 02 chiếc điện thoại (gồm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei: 357291092100100 (không gắn thẻ sim); 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei 357278096108528 (có số thuê bao 0879873833).

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei 358607073418808 (có số thuê bao 0912935696).

Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng mà Kiểm sát viên đã nêu trong Bản luận tội. Tuy nhiên, hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo nhất trí với ý kiến của người bào chữa, không có ý kiến tranh luận, thừa nhận nội dung truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người làm chứng, người chứng kiến không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người chứng kiến đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt người liên quan, người làm chứng và người chứng kiến. Xét thấy, trong hồ sơ đã có lời khai của những người tham gia tố tụng nói trên nên sự vắng mặt họ không gây trở ngại cho quá trình xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Do hám lời, nên khoảng 10 giờ ngày 10/10/2021, Nguyễn Thế V đi đến quận Long Biên, TP Hà Nội mua của người nam giới không rõ họ tên, địa chỉ ma túy loại MDMA khối lượng 39,82 gam với số tiền 10.000.000đ. Đến 14 giờ 30 phút ngày 26/10/2021 V mang theo 39,82 gam ma túy loại MDMA đến khu vực đường cách mạng tháng 8, thuộc tổ 5, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên để bán cho người nam giới tên H đặt mua ma túy của V trước đó với giá 12.000.000đ nhưng chưa kịp bán thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng số 13/CT-VKSPY ngày 24/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, không oan.

Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

b, MDMA …có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặt biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an ninh tại địa phương. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về nhân thân: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học đến lớp 12/12, lao động tự do tại địa phương, là đối tượng nghiện chất ma tuý, có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, mới chấp hành xong hình phạt ngày 14/3/2020, xong bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân, mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy Hội đồng xét xử nhận định bị cáo là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xoá án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Khi lượng hình Hội đồng xét xử thấy: Ma tuý luôn là một vấn nạn đối với toàn xã hội và là nguyên nhân phát sinh của nhiều loại tội phạm khác. Hành vi bán ma tuý để trục lợi của bị cáo là rất đáng lên án. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy cần có mức án nghiêm khắc, buộc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo xét thấy là phù hợp được chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội nhằm thu lời bất chính nên cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nhất định để sung công quỹ Nhà nước.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 3.000.000đ và 02 chiếc điện thoại di động (gồm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei: 357291092100100 (không gắn thẻ sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei 357278096108528 (có số thuê bao 0879873833) không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei 358607073418808 (có số thuê bao 0912935696) là phương tiện dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 niêm phong ký hiệu A1 trên mép dán có chữ ký, họ tên của Nguyễn Thành Trung, Phan Thanh Huy và 02 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 2,240 gam mẫu hoàn lại sau giám định;

01 niêm phong ký hiệu A2 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thế V và các thành phần tham gia và 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 37,43 gam lưu kho. Xét đây là công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

[9] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy theo V khai mua của người nam giới không rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

Đối tượng tên Huy, theo bị cáo khai có gọi điện thoại đặt mua ma túy nhưng không biết họ, tên đệm, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

2.1. Hình phạt chính: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Thế V 17 (Mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2021.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Thế V 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2.2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251, phạt bổ sung Nguyễn Thế V số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei 358607073418808 (có số thuê bao 0912935696) được niêm phong trong 01 niêm phong ký hiệu B1 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thế V và các thành phần tham gia và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thái Nguyên thu giữ của bị cáo V.

+ Tạm giữ số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) và 02 chiếc điện thoại di động {gồm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei:

357291092100100 (không gắn thẻ sim), 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng, số Imei 357278096108528 (có số thuê bao 0879873833)} đều được niêm phong trong 01 niêm phong ký hiệu B1 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thế V và các thành phần tham gia và 03 hình dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thái Nguyên của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 niêm phong ký hiệu A1 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thành Trung, Phan Thanh Huy và 02 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 2,240 gam mẫu hoàn lại sau giám định; 01 niêm phong ký hiệu A2 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thế V và các thành phần tham gia và 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thái Nguyên, bên trong có 37,43 gam lưu kho.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Thái Nguyên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên ngày 27/01/2022 và Ủy nhiệm chi số 69 ngày 20/01/2022 của Công an tỉnh Thái Nguyên).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Nguyễn Thế V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về