Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 22/02/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo:

1) Phạm Hoàng S, sinh năm 1988. Nơi sinh: Cần Thơ.

Nơi cư trú: Khu vực B, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn (văn hóa): 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; con ông Phạm Hoàng H, sinh năm: 1954 (chết) và bà Cao Thị E, sinh năm 1961 (sống); Anh, chị, em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1996; vợ: Huỳnh Thị Mỹ T, sinh năm 1987 (đã ly hôn); con: có 01 người, sinh năm 2012; tiền sự: không; tiền án:

01 lần, ngày 14/2/2019 bị Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Chấp hành án phạt tù từ ngày 23/11/2021.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 22/10/2022, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an quận Ô, thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2) Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1996. Nơi sinh: Đồng Tháp.

Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn (văn hóa): 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1974 (sống) và bà Huỳnh Thị Thu N, sinh năm 1971 (sống); anh, chị, em ruột: có 02 người, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1999; tiền sự: không; tiền án: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam từ ngày 02/11/2022, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1) Anh Bùi Thanh H, sinh năm 2000. Đăng ký thường trú: Ấp 1, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Chỗ ở hiện nay: Khu vực B, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt)

2) Anh Nguyễn Dương L, sinh năm 2003. Địa chỉ: Khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt)

3) Anh Trần Văn T, sinh năm 1999. Địa chỉ: Khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt)

4) Bà Cao Thị E, sinh năm 1961. Địa chỉ: Khu vực B, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 05 phút, ngày 22/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô, thành phố Cần Thơ tiếp nhận tin báo qua số đỉện thoại trực ban về việc đối tượng Bùi Thanh H đang hoạt động tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy cùng với hai đối tượng lạ mặt khác tại khu vực B, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Ô Môn kết hợp với Công an phường P tiến hành đến địa điểm báo tin để xác minh làm rõ, khi đến dưới dốc cầu Giáo Dẫn thuộc khu vực B, phường P lực lượng Công an phát hiện có 04 đối tượng gồm: Nguyễn Dương L, Trần Văn T, Bùi Thanh H và Phạm Hoàng S đang dừng xe có biểu hiện liên quan đến ma túy, phát hiện có lực lượng Công an Phạm Hoàng S điều khiển xe mô tô bỏ chạy, lực lượng Công an tiến hành khám xét khẩn cấp người và phương tiện đối với Bùi Thanh H.

Qua khám xét lực lượng Công an thu giữ: 01 (một) gói ni lông không màu, có nẹp miệng viền đỏ, chứa tinh thể không màu, bên ngoài quấn băng keo màu đen, được phát hiện và thu giữ cách nơi H đang đứng khoảng 0,5m; Tiền Việt Nam 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng).

Qua làm việc Bùi Thanh H khai nhận: Vào đêm ngày 21/10/2022, Nguyễn Dương L rủ H cùng với Trần Văn T hùn tiền với nhau để mua ma túy về sử dụng, H đồng ý và sử dụng điện thoại qua mạng xã hội zalo tài khoản tên “H Bén Hi” điện thoại cho Phạm Hoàng S tài khoản zalo tên “Sống Còn” để mua ma túy với số tiền 300.000 đồng, Phạm Hoàng S đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy dưới dốc cầu Giáo Dẫn thuộc khu vực Bình An, phường Phước Thới. Sau đó T điều khiển xe mô tô biển số 65D1-X chở L và H đến địa điểm hẹn lấy ma túy. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 22/10/2022, Phạm Hoàng S điều khiển xe mô tô biển số 66C1-X mang theo 01 (một) gói ma túy đến điểm hẹn để giao cho nhóm của H, tại thời điểm này ngoài H thì có mặt L và T. Trong lúc chuẩn bị giao ma túy thì thấy lực lượng Công an nên Phạm Hoàng S ném bỏ gói ma túy gần vị trí H đang đứng rồi điều khiển xe bỏ chạy. Đối với H, L và T bị lực lượng Công an mời về trụ sở làm việc. Qua làm việc H, L và T trình bày mục đích mua ma túy mang về để cùng nhau sử dụng ngoài ra không có mục đích gì khác.

Qua lời trình bày của Bùi Thanh H lực lượng Công an tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở của Phạm Hoàng S tại địa chỉ khu vực Bình Hòa B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ, tại thời điểm khám xét có mặt Nguyễn Ngọc S nên lực lượng Công an khám xét khẩn cấp người đối với Nguyễn Ngọc S. Qua khám xét lực lượng Công an thu giữ trong phòng ngủ của Phạm Hoàng S gồm: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A32, màu đen, Imeil: 355870669275353, Imei2: 357848359275352, gắn 02 sim mobifone có số seri: 8401210833257124 và 8401201151065626, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động Itel, màu đỏ - đen, gắn 02 sim mobifone có số seri: 8401201151111916 và 8401181192227651WD, đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô biển số 66C1- X, nhãn hiệu Honda, số loại AIR BLADE, màu sơn đỏ - đen, số máy: JF63E1905373, số khung: RLHJF6301 FZ872743, đã qua sử dụng; 01 (một) cuộn băng keo màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) bình gas mini Blusky màu đen, đã qua sử dụng;

01 (một) bình tự chế bằng nhựa có nắp đậy màu vàng, phía trên có 02 lỗ tròn, một lỗ có gắn đoạn ống thủy tinh, đã qua sử dụng; 02 (hai) nỏ thủy tinh, đã qua sử dụng; 02 (hai) ống hút màu vàng, chưa qua sử dụng; 37 (ba mươi bảy) gói ni lông nẹp miệng sọc xanh, chưa qua sử dụng; 56 (năm mươi sáu) gói ni lông nẹp miệng sọc đỏ, chưa qua sử dụng. Đối với Nguyễn Ngọc S qua khám xét người lực lượng Công an không có thu giữ gì.

Căn cứ kết luận giám định số 353/KL-KTHS ngày 28/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong gói ni lông gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2272 gam.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Hoàng S khai nhận: Vào đêm ngày 21/10/2022, Phạm Hoàng S đang ở nhà tại khu vực Bình Hòa B, phường Phước Thới, quận Ô Môn thì Bùi Thanh H sử dụng tài khoản zalo tên “H Bén Hi” điện thoại cho Phạm Hoàng S để mua 300.000 đồng ma túy, Phạm Hoàng S đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy tại cầu Giáo Dẫn. Đến khoảng 00 giờ 10 phút, cùng ngày 22/10/2022, Phạm Hoàng S lấy 01 (một) gói ma túy sau đó lấy băng keo đen dán lại cầm trên tay rồi điều khiển xe mô tô biển số 66C1-X chạy đến dốc cầu Giáo Dẫn thuộc khu vực Bình An, phường Phước Thới, quận Ô Môn, khi đến Phạm Hoàng S đang dừng xe chuẩn bị giao ma túy cho nhóm của H thì thấy lực lượng Công an nên Phạm Hoàng S ném gói ma túy xuống đường lộ và điều khiển xe bỏ chạy. Đến khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 22/10/2022, khi Phạm Hoàng S đang ở nhà cùng với Nguyễn Ngọc S thi bị lực lượng công an khám xét khẩn cấp nơi ở tại khu vực Bình Hòa B, phường Phước Thới, quận Ô Môn và thu giữ một số vật chứng liên quan đến việc bán trái phép chất ma túy. Gói ma túy công an thu giữ là của Phạm Hoàng S mua của người không rõ họ tên, mục đích mang về để sử dụng và bán kiếm lời. Ngoài ra quá trình điều tra Phạm Hoàng S còn khai giữa Phạm Hoàng S và Nguyễn Ngọc S có mối quan hệ yêu đương đồng tính trong khoảng thời gian từ tháng 02 năm 2022 đến ngày 22/10/2022, Phạm Hoàng S nhiều lần bán trái phép chất ma túy và bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, trong đó có vai trò giúp sức tích cực của Nguyễn Ngọc S, cụ thể như sau: Bán trái phép chất ma túy cho nhóm của Bùi Thanh H khoảng 10 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng trong đó Nguyễn Ngọc S trực tiếp giao ma túy cho nhóm của H được 03 lần, còn lại 07 lần Phạm Hoàng S là người trực tiệp giao, trong 07 lần bán trái phép chất ma túy thì có 03 lần H đi cùng với 01 đến 02 người nhưng Phạm Hoàng S không biết họ tên người đến lấy ma túy; bán ma túy cho Phan Hoàng Dương được 15 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, trong đó Nguyễn Ngọc S trực tiếp giao ma túy cho Dương 01 lần; bán trái phép chất ma túy cho người tên Cường 02 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, trong đó Nguyễn Ngọc S trực tiếp giao 01 lần; bán ma túy cho người người tên Hải 03 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng; bán ma túy cho người tên Bạo 01 lần với số tiền 200.000 đồng. Địa điểm giao nhận ma túy là tại nhà của Phạm Hoàng S có lúc giao nhận ma túy tại cầu Giáo Dẫn thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Số tiền Phạm Hoàng S thu lợi bất chính từ việc bán trái phép chất ma túy là 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng).

Quá trình điều tra Nguyễn Ngọc S khai nhận: Nguyễn Ngọc S và Phạm Hoàng S có mối quan hệ yêu đương đồng tính nam từ tháng 4 năm 2022 đến khoảng tháng 6 năm 2022 Nguyễn Ngọc S đến nhà của Phạm Hoàng S tại khu vực Bình Hòa B, phường Phước Thới, quận Ô Môn cùng chung sống. Trong thời gian ở chung nhà với Phạm Hoàng S thì Nguyễn Ngọc S biết rõ Phạm Hoàng S bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn giúp sức cho Phạm Hoàng S 05 lần giao ma túy, cụ thể như sau: Giao ma túy cho nhóm của H 03 lần, trong đó cả 03 lần giao ma túy thì Nguyễn Ngọc S đều thấy H đi cùng với 01 đến 02 người thanh niên nhưng không biết rõ họ tên;

01 lần giao ma túy cho người tên Cường và 01 lần giao ma túy cho Phan Hoàng Dương, mỗi lần giao ma túy Nguyễn Ngọc S lấy số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, sau đó đưa tiền lại cho Phạm Hoàng S, địa điểm giao ma túy trước cửa nhà của Phạm Hoàng S. Việc giúp Phạm Hoàng S giao ma túy thì Nguyễn Ngọc S được hưởng lợi từ việc Phạm Hoàng S cho ở nhờ trong nhà, cho ăn uống và sử dụng ma túy miễn phí.

Đối với Nguyễn Dương L, Trần Văn T, Bùi Thanh H mục đích hùn tiền với nhau mua ma túy về để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Qua kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể thì L, T và H đều âm tính nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô Môn không xử lý.

Đối với Phan Hoàng Dương và người thanh niên tên Cường, Bạo, Hải có mua ma túy của Phạm Hoàng S nhưng qua xác minh Phan Hoàng Dương không có mặt tại địa phương. Đối với người thanh niên tên Cường, Bạo, Hải thì Phạm Hoàng S không biết rõ họ tên và địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô Môn tiếp tục xác minh làm rõ đủ cơ sở sẽ xử lý.

Đối với người thanh niên bán trái phép chất ma túy cho Phạm Hoàng S do Phạm Hoàng S không biết rõ họ tên và địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô Môn tiếp tục xác minh làm rõ đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với căn nhà tại khu vực Bình Hòa B, phường Phước Thới, quận Ô Môn do bà Cao Thị E mẹ ruột của Phạm Hoàng S sở hữu, việc Phạm Hoàng S sử dụng căn nhà trên để bán trái phép chất ma túy thì bà E không biết nên không xử lý.

Tại Cáo trạng số 05/CT-VKSOM ngày 03/01/2023 Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ để xét xử Phạm Hoàng S và Nguyễn Ngọc S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Qua đó, có phân tích về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, về nhân thân cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

+ Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng S mức án từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S mức án từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 353/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, có chữ ký của cán bộ niêm phong Phạm Thị Thủy N; 01 (một) cuộn băng keo màu đen, đã qua sử dụng;

01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) bình gas mini Blusky màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) bình tự chế bằng nhựa có nắp đậy màu vàng, phía trên có 02 lỗ tròn, một lỗ có gắn đoạn ống thủy tinh, đã qua sử dụng; 02 (hai) nỏ thủy tinh, đã qua sử dụng; 02 (hai) ống hút màu vàng, chưa qua sử dụng; 37 (ba mươi bảy) gói nilon nẹp miệng sọc xanh, chưa qua sử dụng;

56 (năm mươi sáu) gói nilon nẹp miệng sọc đỏ, chưa qua sử dụng.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tài sản thu giữ của bị cáo Phạm Hoàng S: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A32, màu đen, Imeil: 355870669275353, Imei2: 357848359275352, gắn 02 sim mobifone có số seri: 8401210833257124 và 8401201151065626, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động Itel, màu đỏ - đen, gắn 02 sim mobifone có số seri: 8401201151111916 và 8401181192227651WD, đã qua sử dụng.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc S: 01 (một) xe mô tô biển số 66C1- X, nhãn hiệu Honda, số loại AIR BLADE, màu sơn đỏ - đen, số máy: JF63E1905373, số khung: RLHJF6301 FZ872743, đã qua sử dụng.

+ Trả lại cho Nguyễn Dương L: Tiền Việt Nam 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng).

+ Buộc bị cáo Phạm Hoàng S nộp lại số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng) là tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy để sung vào công quỹ Nhà nước.

- Các bị cáo thừa nhận hành toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Ô Môn, điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; của Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn, Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội: Lời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can tại cơ quan điều tra; Biên bản khám xét ngày 22/10/2022; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 22/10/2022 và ngày 25/11/2022; Kết luận giám định số 353/KL-KLHS ngày 28/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ; Các biên bản ghi lời khai và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:

Để có tiền tiêu xài nên bị cáo Phạm Hoàng S và bị cáo Nguyễn Ngọc S đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người. Cụ thể: Từ tháng 02 năm 2022 đến ngày 22/10/2022 bị cáo Phạm Hoàng S nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, trong đó có vai trò giúp sức tích cực của bị cáo Nguyễn Ngọc S, cụ thể như sau: Bán trái phép chất ma túy cho nhóm của Bùi Thanh H khoảng 10 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng trong đó bị cáo Nguyễn Ngọc S trực tiếp giao ma túy cho nhóm của H được 03 lần, còn lại 07 lần bị cáo Phạm Hoàng S là người trực tiếp giao, trong 07 lần bán trái phép chất ma túy thì có 03 lần H đi cùng với 01 đến 02 người nhưng bị cáo Phạm Hoàng S không biết họ tên người đến lấy ma túy; bán ma túy cho Phan Hoàng Dương được 15 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, trong đó bị cáo Nguyễn Ngọc S trực tiếp giao ma túy cho Dương 01 lần; bán trái phép chất ma túy cho người tên Cường 02 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, trong đó bị cáo Nguyễn Ngọc S trực tiếp giao 01 lần; bán ma túy cho người người tên Hải 03 lần, mỗi lần bán với số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng; bán ma túy cho người tên Bạo 01 lần với số tiền 200.000 đồng. Địa điểm giao nhận ma túy là tại nhà của bị cáo Phạm Hoàng S có lúc giao nhận ma túy tại cầu Giáo Dẫn thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Số tiền bị cáo Phạm Hoàng S thu lợi bất chính từ việc bán trái phép chất ma túy là 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng); Từ tháng 6 năm 2022 đến ngày 22/10/2022 bị cáo Nguyễn Ngọc S ở chung nhà với bị cáo Phạm Hoàng S và giúp sức cho bị cáo Phạm Hoàng S trong việc bán ma túy với 05 lần giao ma túy như sau: Giao ma túy cho nhóm của H 03 lần, trong đó cả 03 lần giao ma túy thì bị cáo Nguyễn Ngọc S đều thấy H đi cùng với 01 đến 02 người thanh niên nhưng không biết rõ họ tên; 01 lần giao ma túy cho người tên Cường và 01 lần giao ma túy cho Phan Hoàng Dương, mỗi lần giao ma túy bị cáo Nguyễn Ngọc S lấy số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, sau đó đưa tiền lại cho bị cáo Phạm Hoàng S, địa điểm giao ma túy trước cửa nhà của bị cáo Phạm Hoàng S. Việc giúp bị cáo Phạm Hoàng S giao ma túy thì bị cáo Nguyễn Ngọc S được bị cáo Phạm Hoàng S cho ở nhờ trong nhà, cho ăn uống và sử dụng ma túy miễn phí. Qua khám xét, có thu giữ 0,2272 gam ma túy, loại Methamphetamine do bị cáo Phạm Hoàng S đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhóm của Bùi Thanh H gồm Bùi Thanh H, Nguyễn Dương L và Trần Văn T.

Các bị cáo thống nhất khai nhận, bị cáo Phạm Hoàng S có hành vi mua chất ma túy về chia nhỏ ra để bán nhiều lần cho nhiều người nhằm thu lợi nhuận, bị cáo Nguyễn Ngọc S biết rõ và giúp sức tích cực cho bị cáo Phạm Hoàng S nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, điều này cho thấy các bị cáo phạm tội do lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố, xét xử đối với các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Ma túy là hiểm họa lớn của toàn nhân loại, đã trực tiếp hủy hoại cuộc sống của hàng triệu con người và là mối đe dọa lớn đối với đời sống xã hội, đất nước. Vì vậy, Nhà nước đã có chế tài nghiêm khắc đối với loại tội phạm này.

Các bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức hành vi phạm tội, biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm thu lợi và hưởng lợi bất chính là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo Phạm Hoàng S là người có nhân thân xấu, có tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo Phạm Hoàng S vì muốn có tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu cá nhân nên đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người để thu lợi bất chính; bị cáo Nguyễn Ngọc S vì muốn phục vụ nhu cầu cá nhân nên đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người để được bị cáo Phạm Hoàng S cho ở nhờ và cho sử dụng ma túy miễn phí. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật hình sự bảo vệ. Đồng thời, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Xét thấy, các bị cáo có vai trò đồng phạm trong thực hiện hành vi phạm tội nhưng ở mức độ giản đơn, bị cáo Phạm Hoàng S là người cầm đầu thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Ngọc S là người thực hành, giúp sức cùng nhau phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử có xem xét mức án tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do từng bị cáo gây ra. Do đó, để giáo dục răn đe các bị cáo, góp phần đấu tranh phòng chống loại tội phạm ma túy, cần cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, sống đặt mình trong khuôn khổ pháp luật.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Ngọc S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Phạm Hoàng S có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự do tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa thể hiện các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết này và xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo để cân nhắc hình phạt khi lượng hình như quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bị cáo khi chấp hành án nên không phạt bổ sung đối với các bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án: Theo đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa nêu trên là có cở sở, phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Đối với Nguyễn Dương L, Trần Văn T, Bùi Thanh H mục đích hùn tiền với nhau mua ma túy về để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Qua kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể thì L, T và H đều âm tính nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô Môn không xử lý là phù hợp.

Đối với Phan Hoàng Dương và người thanh niên tên Cường, Bạo, Hải có mua ma túy của Phạm Hoàng S nhưng qua xác minh Phan Hoàng Dương không có mặt tại địa phương. Người thanh niên tên Cường, Bạo, Hải thì bị cáo Phạm Hoàng S không biết rõ họ tên và địa chỉ; Đối với người thanh niên bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Phạm Hoàng S, Phạm Hoàng S không biết rõ họ tên và địa chỉ. Do đó, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ô Môn tiếp tục xác minh làm rõ, khi có đủ cơ sở xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với căn nhà tại khu vực Bình Hòa B, phường Phước Thới, quận Ô Môn do bà Cao Thị E là mẹ ruột của bị cáo Phạm Hoàng S sở hữu, việc bị cáo Phạm Hoàng S sử dụng căn nhà trên để bán trái phép chất ma túy thì bà E không biết nên không xử lý là phù hợp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố : Phạm Hoàng S và Nguyễn Ngọc S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Hoàng S.

Xử phạt Phạm Hoàng S 08 (tám) năm tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/10/2022.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;

Điều 17 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S.

Xử phạt Nguyễn Ngọc S 07 (bảy) năm tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/11/2022.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1882 gam, được niêm phong vào 01 (một) gói niêm phong số 353/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, có chữ ký của cán bộ niêm phong Phạm Thị Thủy N; 01 (một) cuộn băng keo màu đen, đã qua sử dụng;

01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) bình gas mini BLUESKY màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) bình tự chế bằng nhựa, có nắp đậy màu vàng, phía trên có 02 lỗ tròn, một lỗ có gắn đoạn ống thủy tinh, đã qua sử dụng; 02 (hai) nỏ thủy tinh, đã qua sử dụng; 02 (hai) ống hút màu vàng, chưa qua sử dụng; 37 (ba mươi bảy) gói ni lông nẹp miệng sọc xanh, chưa qua sử dụng; 56 (năm mươi sáu) gói ni lông nẹp miệng sọc đỏ, chưa qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tài sản thu giữ của bị cáo Phạm Hoàng S: 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A32, màu đen, Imei 1:355870669275353, Imei 2: 357848359275352, gắn 02 sim Mobifone có số sê ri 8401210833257124 và 8401201151065626, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động Itel, màu đỏ - đen, gắn 02 sim Mobifone có số sê ri: 8401201151111916 và 8401181192227651WD, số IMEI 1: 358625107332100, IMEI 2: 358625107332118, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc S: 01 (một) xe mô tô biển số 66C1- X, nhãn hiệu Honda, số loại Airblade, màu đỏ - đen, số máy: JF63E1905373, số khung: RLHJF6301FZ872743, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Dương L: Tiền Việt Nam 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng).

- Bị cáo Phạm Hoàng S phải nộp số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng) là tiền thu lợi bất chính để sung vào công quỹ Nhà nước.

(Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn quản lý theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 05/01/2023 của Công an quận Ô Môn) - Tịch thu lưu hồ sơ: 02 (hai) bao thư niêm phong chứa đĩa ghi hình hỏi cung bị cáo Phạm Hoàng S và bị cáo Nguyễn Ngọc S cùng ngày 25/11/2022 (chuyển cùng hồ sơ vụ án).

Về án phí sơ thẩm Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai, để xin Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về